Ngày 1 Tháng Mười năm 2016, đồng nguyên của Trung Quốc sẽ được
xếp hàng ngang với đồng Pound của Anh Quốc, đồng Yen của Nhật Bản, đồng euro
Châu Âu và đồng đô la Mỹ được Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế công nhận quyền “Special
Drawing Rights” (SDR), sử dụng như một ngoại tệ dự trữ.
Chính quyền Cộng Sản Trung Quốc sẽ khoa trương với dân chúng
trong lục địa về địa vị mới này, để người ta quên những khó khăn khi kinh tế
đang giảm tốc độ tăng trưởng.
Nhưng đối với các nước đang phát triển thì không
nước nào muốn đi theo “mô hình kinh tế Trung Quốc” nữa, vì chính Bắc Kinh đang
thấy cần cải tổ toàn diện, nếu không sẽ sa lầy trong hàng chục năm tới.
Các chế độ chuyên quyền độc đoán thường dựng lên một ảo tưởng,
là chính quyền độc tài giữ cho xã hội được ổn định, do đó kinh tế phát triển
nhanh hơn trong các xã hội tự do. Nếu nhìn kỹ và biết suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy
nhiều chứng cớ và lý luận bác bỏ luận điệu sai lầm đó. Chỉ cần so sánh Nam Hàn
với Bắc Hàn hoặc Ðông Âu với Tây Âu trong 40 năm sau Ðại Chiến Thứ Hai là có thể
so sánh hậu quả kinh tế của các chế độ độc tài và dân chủ. Ngay trong số các nước
ở Tây Âu, cùng thời gian đó Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha cũng chậm phát triển nhất
so với Pháp, Ðức, vì các chính quyền độc tài ngự trị, cho tới năm 1975. Hai nước
đó thua cả nước Ý dân chủ, mà nước Ý thì đảng phái phân liệt, chính phủ thay đổi
liên miên, chậm tiến nhất trong số bẩy nước G-7.
Chính thể dân chủ tự do tạo nhiều cơ hội cho kinh tế phát
triển, các chế độ độc tài thì không. Ðược tự do, nhà kinh doanh dám chấp nhận đầu
tư vào những dự án mới nhiều rủi ro, vì biết nếu thành công sẽ được hưởng các
thành quả. Khi được tự do hơn, người lao động lập công đoàn tranh đấu cho quyền
lợi của họ. Khi được đãi ngộ xứng đáng người ta sẽ làm việc hăng hái hơn. Chính
trị tự do giúp kinh tế phát triển; điều này thấy hiển nhiên khi thế giới nhìn cả
khối Liên Xô sụp đổ, chỉ vì chính trị độc tài đưa kinh tế tới thất bại.
Tuy vậy, vẫn có người nêu lên trường hợp hai nước Ấn Ðộ và
Trung Hoa để kết luận rằng Trung Quốc hiện nay tiến nhanh hơn về kinh tế là nhờ
họ theo chế độ độc tài, còn Ấn Ðộ vì dân chủ nên vẫn chưa đuổi kịp. Nếu không
nghiên cứu kỹ lịch sử hai quốc gia này thì nhiều người sẽ mắc bẫy mà tin theo
nhận xét sai lầm này. Hai nước Ấn Ðộ và Trung Quốc có lịch sử khác hẳn nhau, điều
kiện văn hóa, xã hội, chủng tộc khác hẳn nhau từ gốc rễ, không thể đem so sánh
được. Nếu muốn nhìn thấy ảnh hưởng của chính trị trên kinh tế, hãy so sánh
Trung Quốc với Ðài Loan hoặc Nam Hàn và Nhật Bản ví các nước đó cùng gốc rễ văn
hóa; và chỉ nên so sánh Ấn Ðộ với Pakistan vì cùng lập quốc một thời gian.
Giáo Sư Hoàng Á Sinh là tác giả cuốn “Kinh tế tư bản với đặc
tính Trung Hoa, Capitalism with Chinese characteristics;” ông cũng so sánh kinh
tế Trung Quốc với Ấn Ðộ. Ông là người Trung Quốc, sang Mỹ sau khi đã tốt nghiệp
đại học, cho nên ông hiểu biết về nước Trung Hoa sâu xa hơn nhiều nhà nghiên cứu
ngoại quốc.
Hoàng Á Sinh nêu lên một nhận xét mà hầu hết các người
nghiên cứu về kinh tế thường không nhìn thấy, mà các du khách cũng như các nhà
báo cũng không thể thấy. Kinh tế hai nước Trung Quốc và Ấn Ðộ đều có lúc lên
lúc xuống, nhưng Hoàng Á Sinh nhận ra là những lúc thành công và những khi thất
bại của cả hai nước đều bắt nguồn từ những nguyên nhân giống nhau. Ông nói rõ
hơn: “Kinh tế hai nước đều phát triển cao hơn khi chế độ chính trị ở các nước
này cởi mở tự do hơn. Ngược lại, kinh tế của họ bị trì trệ khi nhà nước theo
chính sách độc đoán hơn.” Ðây là một nhận xét đáng tìm hiểu, để xóa đi những ảo
tưởng và ngụy biện.
Ấn Ðộ mới trở thành một quốc gia năm 1947 (khác với Trung Quốc
đã lập quốc từ thời Tần Thủy Hoàng, hơn 2000 năm trước). Sau khi độc lập, mặc
dù theo chính thể dân chủ, chính phủ Ấn Ðộ đã chọn đường lối kinh tế xã hội chủ
nghĩa, giống như Liên Xô. Tình trạng kinh tế càng trì trệ hơn khi chính quyền Ấn
Ðộ áp dụng chính trị độc tài; mà hậu quả còn di hại cho tới ngày nay. Và từ
khi, nhờ mấy lần thay đổi đảng cầm quyền, chính phủ nước này quay trở lại với
đường lối dân chủ thì kinh tế mới bắt đầu khá.
Bà Indira Gandhi và đảng Quốc Ðại nắm quyền trong hầu hết thời
gian từ 1966 đến 1984. Bà không những áp dụng chính sách kinh tế xã hội chủ
nghĩa theo lối Liên Xô bằng cách quốc hữu hóa các ngân hàng và nhiều xí nghiệp
lớn, mà bà còn tìm cách cai trị dân theo lối một nhà độc tài, mặc dù vẫn còn Hiến
Pháp. Trong Hiến Pháp Ấn Ðộ có điều 356 cho phép gia tăng quyền hành của chính
phủ liên bang và lấn quyền các tiểu bang. Trong 10 năm từ 1966 đến 1976, Indira
Gandhi đã sử dụng điều khoản đó tổng cộng 36 lần! Từ 1980 đến 1984 bà Indira
Gandhi lại sử dụng đặc quyền vì tình trạng khẩn trương thêm 13 lần nữa, tính ra
mỗi năm 3 lần! Trước đó, từ 1950 đến 1965 các chính phủ Ấn Ðộ chỉ dùng điều này
có 9 lần, khi phải đối phó với những vụ bạo động vì tôn giáo, chủng tộc hay
ngôn ngữ – mà ở quốc gia phức tạp này vẫn thường xuyên xẩy ra.
Một chính quyền kiểu Indira Gandhi không thể gọi là dân chủ.
Bà Gandhi còn muốn nắm độc quyền trong đảng, gây tai hại cho cơ cấu đảng Quốc Ðại
mà thân phụ bà để lại. Bà không kính trọng hệ thống tổ chức của đảng, dựng lên
một mạng lưới chia chác quyền lợi cho đám đàn em trung thành với bà. Hậu quả là
các tay chân của bà, và tay chân của bọn tay chân đó, khi cầm quyền không ai cảm
thấy họ chịu trách nhiệm với các đảng viên Quốc Ðại cũng như với các cử tri.
Khi một guồng máy chính quyền không cảm thấy chịu trách nhiệm
với cử tri mà chỉ lo được lòng cấp trên, thì họ không lo tính đến những kế hoạch
kinh tế ích quốc lợi dân lâu dài nữa. Vì vậy, trong những năm bà Gandhi cai trị,
kinh tế Ấn Ðộ đã xuống dốc. Ðiều đáng khen bà Indira Gandhi là bà vẫn kính trọng
bản Hiến Pháp. Có lẽ vì bà đã nhiễm quen nếp sống tôn trọng luật pháp trong nền
nếp giáo dục Anh Quốc, nhờ thế thể chế dân chủ nước Ấn Ðộ vẫn tồn tại. Khi đảng
Quốc Ðại bị cử tri bất tín nhiệm và thất cử, bà đã lẳng lặng trở về đời sống
thường dân để đợi thời, và chấp nhận khi bị đưa ra tòa.
Nhưng ảnh hưởng tai hại của thời kỳ Indira Gandhi độc tài
còn lưu họa đến ngày nay: Khi các nhà chính trị không còn chịu sự kiểm soát của
cử tri bỏ phiếu, mà chỉ tùy thuộc vào guồng máy tay chân do bà Gandhi cầm đầu,
thì họ không chăm lo các nhu cầu thiết yếu cho việc phát triển kinh tế. Hai
lãnh vực bị bỏ quên trong thời gian đó là giáo dục và y tế, đến nay nước Ấn Ðộ
còn đang cố gắng chạy nhanh hơn sau những năm thụt lùi. Chính trị sai lầm không
những làm kinh tế chậm phát triển mà còn để lại những hậu quả tai hại lâu đời
khiến đời sau phải mất công sửa chữa. Mà các chế độ độc tài chính là những chế
độ lơ là với giáo dục và y tế.
Sau khi “triều đại Gandhi” bị gạt bỏ, chính phủ mới đã bắt đầu
cải tổ theo kinh tế thị trường. Sau đó, khi đảng Quốc Ðại được tái cử họ vẫn
theo chính sách đổi mới đó, vì giấc mộng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũng đã tan
vỡ. Nhưng điều quan trọng hơn là không khí chính trị đã cởi mở và dân chủ hơn.
Người cầm quyền, dù thuộc đảng Quốc Ðại hay đảng khác, đều biết lo đến tương
lai.
Các chính phủ mới đã đầu tư vào giáo dục và y tế, nhất là ở
nông thôn, vì biết đó là chìa khóa mở cửa tương lai. Năm 2007, trong khi kinh tế
dự phóng sẽ tăng 9%, chính phủ thuộc đảng Quốc Ðại đã tăng ngân sách giáo dục
thêm 34% và ngân sách y tế tăng 22%. Trong khung cảnh đó, kinh tế Ấn Ðộ mới bắt
đầu cất cánh. Hai năm trước đây đảng Quốc Ðại lại mất tín nhiệm và đảng
Bharatiya Janata Party (BJP) trở lại cai trị nước Ấn Ðộ.
Giáo Sư Hoàng Á Sinh quan sát quá trình đổi mới ở Trung Quốc,
ông thấy có hai giai đoạn khác nhau, chứng tỏ chính trị cởi mở giúp kinh tế
hưng thịnh, vì người dân được tự do đã đầu tư nhiều hơn.
Thập niên 1980 là giai đoạn Trung Quốc phát triển sâu và rộng,
đặc biệt là ở các vùng nông thôn, nâng mức sống của hàng trăm triệu người lên
cao. Nhiều người phân tích giai đoạn này thường chỉ chú trọng đến chính sách
nông nghiệp tự do, nhưng Hoàng Á Sinh còn khám phá ra một lãnh vực sản xuất
công nghiệp mà các nhà kinh tế phương Tây không thấy. Số sản xuất ở Trung Quốc
trong thập niên 1980 lên cao là nhờ hệ thống những xí nghiệp tư nhân ở khắp các
vùng nông thôn, khi người dân được tự do hơn. Những xí nghiệp hương thôn này
thường được các nhà kinh tế ngoại quốc coi là quốc doanh, nhưng ông Hoàng Á
Sinh nghiên cứu tận gốc nên thấy rõ đại đa số là của tư nhân, chính lớp doanh
nhân nông thôn này vực nền kinh tế cả nước dậy.
Hoàng Á Sinh khẳng định lý do chính của sự phát triển trong
thời gian này là nhờ những thay đổi trong không khí chính trị. Chính trị tự do
hơn giúp kinh tế mạnh hơn. Ðặng Tiểu Bình lên, sau khi đã bị Mao Trạch Ðông đày
đọa mấy lần, dân Trung Hoa nhìn thấy ông như một người dám đoạn tuyệt với các
tư tưởng và chủ trương của Mao. Người dân Trung Hoa cảm thấy được cởi trói, họ
chấp nhận đổi mới cơ cấu, làm việc hăng hái và dám thí nghiệm những lối làm việc
mới. Giáo Sư Bùi Mẫn Hân, một người Trung Quốc khác, cũng nhận xét rằng hầu hết
các thay đổi chính trị quan trọng ở Trung Quốc đã diễn ra trong thập niên 1980.
Thí dụ quyết định buộc các nhân viên nhà nước và Quốc Hội đến hạn tuổi phải về
hưu, cải tổ hệ thống tư pháp, gia tăng quyền lực cho Quốc Hội, thí nghiệm cho
dân bàu trực tiếp chính quyền hương thôn, đều được đưa ra trong giai đoạn này,
tạo nên một không khí phấn khởi. Cùng lúc đó, nông dân được vay vốn dễ dàng
hơn, do đó những xí nghiệp hương thôn mở ra khắp nơi giảm bớt nạn khiếm dụng,
10 triệu trong số 12 triệu xí nghiệp đó hoàn toàn do tư nhân làm chủ, sản năng
của họ cao gấp bội các doanh nghiệp nhà nuớc.
Biến cố Thiên An Môn năm 1989 đã khiến Bắc Kinh thay đổi. Ðảng
Cộng Sản Trung Hoa bỏ rơi nông dân, xây dựng lớp trung lưu thành thị phần lớn
là cán bộ đảng viên tập trung dưới sự bảo trợ của đảng.
Trước năm 1989, những người như Triệu Tử Dương, Vạn Lý, Ðiền
Kỷ Vân đều tiến thân nhờ những thí nghiệm cải tổ của họ thành công ở nông thôn.
Sau Thiên An Môn, họ bị thay thế bằng “nhóm Thượng Hải,” là một thành phố mà từ
1980 vẫn là nơi cải tổ ít và chậm nhất nước. Từ 1990 cho tới gần đây, chính
sách kinh tế của Cộng Sản Trung Quốc bỏ rơi nông thôn, bỏ rơi kinh tế tư nhân.
Tiền “kích thích kinh tế” được trao cho các cán bộ, đảng viên trong những doanh
nghiệp nhà nuớc. Các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở là cách đưa tiền từ ngân hàng
nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nuớc đứng thầu. Kế hoạch kích thích gần 600 tỷ
đô la phần lớn được dùng trong chiều hướng đó. Ông Dư Vĩnh Ðịnh (Yu Yongding),
một cố vấn của Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc nhận xét rằng những món chi tiêu
này là phí phạm, không dùng tài nguyên đúng chỗ.
Khi Hồ Cẩm Ðào và Ôn Gia Bảo lên cầm quyền, họ cũng muốn
thay đổi mạng lưới Thượng Hải, một hành động quyết liệt là bắt bí Thư Thị Ủy Trần
Lương Ngọc về tội tham nhũng. Nhưng chưa thấy nông dân được hưởng những lợi ích
như thời 1980. Tập Cận Bình lên nối ngôi thừa hưởng một nền kinh tế mất thăng bằng,
với quả bom nợ khổng lồ không biết bao giờ bùng nổ. Tập Cận Bình biết phải cải
tổ cơ cấu cả nền kinh tế để thoát cơn bế tắc này.
Ðiều khiến hai nhà nghiên cứu người Trung Quốc là Hoàng Á
Sinh và Bùi Mẫn Hân lo ngại nhất là từ thập niên 1990, đầu tư vào giáo dục và y
tế ở Trung Quốc không tăng mà còn giảm. “Trong khi Thượng Hải xây thêm 3,000
nhà chọc trời thì trong dân chúng Trung Hoa tăng thêm 30 triệu người mù chữ!”
Người tiêu thụ trước kia được hưởng gần 50% tổng sản lượng nội địa thì hiện nay
chỉ được hưởng 33%, chỗ sai biệt đưa vào túi các cán bộ điều khiển các công ty.
Nước giầu hơn, nhưng dân nghèo đi, người nghèo kém xa người
giầu hơn trước. Chỉ vì chế độ vẫn là độc tài đảng trị. Chính trị chắc chắn ảnh
hưởng đến phần chia chiếc bánh kinh tế của tầng lớp dân nghèo!
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét