Tương Lai
Khi đã mất niềm tin thì thật khó sống. Ấy vậy mà khủng hoảng
niềm tin lại đang là đặc điểm nổi bật nhất của môi trường sống của chúng ta hiện
nay! Khủng hoảng niềm tin đè nặng lên cuộc sống của mọi người, trước hết là những
người đang đớn đau ưu tư về vận nước. Trong bối cảnh đó người ta lại làm ra vẻ
thức tỉnh về cái gánh nặng gánh nhẹ gì đó mà lên giọng giáo huấn để rao giảng
hãy “lấy lại niềm tin trước sự rộng lượng của nhân dân”!
Rộng lượng ư? Nhân dân thì bao giờ chẳng rộng lượng. Vì thế
mà bọn sâu mọt đã khai thác triệt để sự rộng lượng ấy để “ăn của dân không từ một
thứ gì”. Có kẻ ăn vội không kịp chùi mép. Đó là loại xoàng. Loại cao thủ thì chẳng
những chùi rất sạch, lại vẩy thêm tí nước hoa đạo đức giả để tiếp tục khai thác
sự rộng lượng của những người nhẹ dạ cả tin đang phẫn nộ về chuyện ăn không từ
một thứ gì đó. Đây là chuyện ăn bẩn mà bà Phó Doan phải buột miệng nói ra tại một
cuộc họp ngày 11.9.2012 chứ không phải là chuyện ăn cá biển đã được bà Bộ trưởng
Y tế thông báo.
Một thông báo hết sức vi diệu: “Sau vời vợi mong chờ “câu hỏi
cá” đã được Bộ Y tế đưa ra như báo Lao Động ngày 21.9.2016 viết. Đại ý: Cá tầng
mặt, cá nuôi lồng có thể ăn. Trong khi đó tôm, tít, ốc mực, cá đuối, bạch tuộc,
cua đá sống ở tầng đáy trong vòng 13,5 hải lý những loài “có phát hiện phenol”
thì chớ có dại. Nhưng thông tin này sau đó đã đặt ra “cả tỉ câu hỏi”. Và, hỏi
cũng chỉ là để tự hỏi nhau. Trách nhiệm thông báo của các Bộ đã xong, từ giờ
phút thiêng liêng này, mỗi con cá, con cua phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về
nơi sinh ra và lớn lên của mình, báo Lao Động bình như vậy để viết tiếp:
“Có một câu hỏi chính đáng của người dân thiết nghĩ không thể
không đặt ra ở đây: Vậy làm thế nào để biết con cua nào trong vùng nguy hiểm
25km? Làm thế nào để tường đó là con ghẹ ở Campuchia chứ không phải là ghẹ từ
vùng nguy hiểm? Thưa Bộ trưởng, người dân muốn trở thành “người tiêu dùng thông
thái” lắm, nhưng chuyện phân biệt con cua an toàn, con ghẹ chứa phenol khó quá.
Khó đến bất khả thi.” Và rồi tờ báo kết luận:
“Chẳng lẽ cứ phải ăn bằng niềm tin. Tin rằng biết đâu đó là
một con ghẹ sạch?!”
Cái ông nhà báo đa sự này đặt ra câu hỏi cắc cớ, người đã
không sạch thì ghẹ sạch làm sao được mà đòi người ta trả lời. Nhưng dù biển
không sạch, cá tôm cua ghẹ không sạch nhưng vì một “quyết tâm chính trị” phải
nói dối là sạch để an dân, đừng cho chúng nổi loạn lên, thì đã sao nào? Khi lời
nói dối vừa ngọt ngào vừa thớ lợ đã được ban ra ngay từ đầu để trấn an người bạn
vàng đối tác nhằm biểu tỏ quyết tâm sát cánh đến cùng cho dù biển của nước tớ
có chết, dân nước tớ có điêu đứng gậy bị đi ăn mày, thì Formosa vẫn cứ được tớ
bảo kê, vẫn vững như bàn thạch. Yên chí đi bạn mến thương.
Vì thế sao ghẹ lại không sạch được. Nó phải sạch ngay khi
ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đến “kiểm tra mô hình sản xuất nông nghiệp
công nghệ cao, khu dân cư mẫu nông thôn mới và tiến độ dự án Formosa” trong hai
ngày 21 và 22.4.2016 như báo Nhân Dân đưa tin. Nghĩa là chỉ mười ngày sau khi
cá chết nổi trắng bờ biển Vũng Áng rồi tiếp tục lan ra bờ biển các tỉnh phía
Nam Hà Tĩnh. Ông Tổng Trọng đã không nói một từ về cá chết và hỏi thăm dân tình
đang điêu đứng vì thảm họa này, mà chỉ khen tiến độ của “dự án Formosa”, để rồi
mãi đến ngày 18.7.2016 trong Hội nghị tổng kết công tác bầu cử đại biểu Quốc hội
và Hội đồng Nhân dân các cấp, lần đầu tiên ông mới nói đến chuyện này. Mà nói
là vì “Sự cố cá chết… gây khó khăn cho công tác bầu cử”.
Đó là lý do để cho Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường Võ
Tuấn Nhân cung cúc chấp hành nghiêm lệnh mà tuyên bố ráo hoảnh vào ngày
27.4.2016: “Cơ quan chuyên môn đã thống nhất nhận định có hai nhóm nguyên nhân
chính. Một là do tác động độc tố hoá học của con người và trên biển. Thứ hai là
do tác động của hiện tượng tảo nở hoa hay thủy triều đỏ”. Ngoài ra, “Hiện chưa
thấy mối liên hệ với hoạt động của Formosa và các công ty trong khu vực với
tình trạng cá chết hàng loạt này”. Họ ngây ngô giả ngọng giả điếc trước lòng phẫn
nộ trào dâng của ngư dân vùng biển đang gào thét trong các cuộc tuần hành liên
miên với khẩu hiệu lên án thảm họa môi trường, đòi “dân cần biển sạch và chính
quyền sạch”.
Họ cố tình không nghe tiếng gào thét của dân, nhưng thế giới
thì lại nghe rất rõ. Chẳng thế mà ngay ngày 26.4.2016, một bản kiến nghị đăng
trên trang web “We the People” của Nhà Trắng, đề nghị chính phủ Liên bang Mỹ hỗ
trợ người dân Việt Nam bằng cách cung cấp đánh giá độc lập về tác động môi trường
của nhà máy thép (Formosa). Đã có đề nghị Tổng thống Obama nêu vấn đề này với
chính phủ Việt Nam trong chuyến thăm vào tháng 5. Tính tới tối 3.5. 2016 đã có
hơn 138.000 người ký. Con số trên lớn hơn nhiều so với con số tối thiểu 100.000
chữ ký để Nhà Trắng phải lên tiếng.
Giới khoa học quốc tế cũng kịp thời lên tiếng. Ví như, Quỹ
Ethecon báo cáo về vụ này đã tiếp xúc với nhà khoa học đã tham gia “Nhóm chuyên
gia” của chính phủ Việt Nam, tiến sĩ Schroeder. Ông đã than phiền với Quỹ Bảo vệ
Biển Đức (DSM) và với họ rằng, nhóm của ông đã không được phép tự lấy mẫu nước
bị nhiễm độc, cũng như chỉ được báo cáo dựa trên những kết quả của các nhà khoa
học trong nước trước đó. Quỹ kêu gọi Chính phủ Việt Nam phải bảo đảm sự minh bạch
tuyệt đối về nguyên nhân, mức độ và phạm vi của thảm họa.
Dưới áp lực của công luận trong và ngoài nước, hoảng sợ trước
sự phẫn nộ của dân, cuối cùng người ta cũng đành phải dàn xếp để “Formosa cúi đầu
nhận tội”! Xin miễn phải nhắc lại đây sự khuất tất bỉ ổi giữa số tiền đền bù và
tiền hoàn thuế mà Formosa nhận được. Trơ trẽn hơn, người ta lại kêu gọi sự “rộng
lượng đối với người đã biết nhận tội” để hí hửng đếm vội tiền “đền bù”.
Lại rộng lượng!
Sao bỗng nhiên người ta lại lễ phép và nhu mì thế nhỉ. Chắc
chẳng phải chỉ vì Chu Xuân Phàm đã bất ngờ nói toẹt ra cái sự thật mà từ người
to nhất ở cấp chỉ đạo chiến lược gắn chặt với vùng “nhượng địa 70 năm” này cho
đến các rô bốt từ cấp thấp hơn một tí cứ giấu như mèo giấu cứt. Để rồi giấu đầu
hở đuôi. Rốt cuộc phải ngọng ngoẹo nói lên một phần sự thật.
Công bằng mà xét, trong cái hệ thống toa rập với nhau để quyết
liệt nói dối một cách bỉ ổi về vụ Formosa với thảm họa môi trường này, người
duy nhất còn chút liêm sỉ để không nói dối chính là tay Chu Xuân Phàm này đấy.
Nếu “rộng lượng” thì ông ta mới là người đáng nhận được ân huệ đó chứ không phải
là những kẻ theo đóm ăn tàn, lựa chiều để kiếm chác bằng chiêu thức mị dân mà
công luận đã nhẵn mặt. Vả chăng, xét cho cùng, đã bão hòa với sự giả dối bịp bợm
kéo dài và rộng khắp, dần dà kết đọng lại, trầm tích trong kết cấu hạ tầng tâm
lý xã hội, khiến người ta chai lì với việc lộng giả thành chân nên cũng chẳng
buồn phản ứng. Mà phản ứng chi cho mệt. Việc ta, ta biế; việc họ, họ làm. Chó cứ
sủa, đoàn người cứ đi. Cứ ngỡ như sự vô cảm đang phả một làn sương buốt giá lên
diện mạo xã hội trong chầu tàn cuộc của buổi chợ chiều “Hàng quán người về nghe
xáo xác/ Nợ nần năm hết hỏi lung tung”! (Nguyễn Khuyến)
Vì thế mà tạm dừng cái chuyện to tát chẳng đặng đừng để phải
nói đôi lời, xin trở lại với chuyện cá chết, “chuyện phân biệt con cua an toàn,
con ghẹ chứa phenol khó quá. Khó đến bất khả thi” như báo Lao Động than vãn để
rồi chán nản thốt ra: “Chẳng lẽ cứ phải ăn bằng niềm tin. Tin rằng biết đâu đó
là một con ghẹ sạch”.
Phải ăn bằng niềm tin quá đi chứ, chẳng lẽ gì nữa. Không ăn
cũng phải ăn. Ăn đến phát ọe ra cũng vẫn phải ăn. Vì đâu chỉ bị nhét vào mồm,
mà còn đập vào mắt, hét vào tai hết ngày dài lại đến đêm thâu!
Có sự đầu độc tâm hồn, não trạng kể cả sự băng hoại của cảm
xúc, thị hiếu con người thì mới dẫn đến sự đầu độc biển, đầu độc trời, đầu độc
đất, đầu độc cá tôm cua ghẹ, đầu độc rau cỏ, hoa trái. Đầu độc bằng sự nói dối
lừa mị triền miên, khởi đầu từ cái lớn nhất để dần dà đến những cái vừa vừa, rồi
cái nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày. Như chất axit ăn mòn từ ngoài da rồi ăn
dần đến lục phủ ngũ tạng.
Chao ôi, rộng lượng cách nào đây khi mà sự bục vỡ lòng tin về
cái giả biến thành cái thật được đóng dấu và rao giảng, người ngay sợ kẻ gian,
pháp luật là một thứ trò hề cù không cười. Phiên tòa án vừa diễn ra tại Hà Nội
xử nhà báo kiên trung Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh được một vị luật sư vạch rõ: “Đây
là phiên tòa của thế kỷ 19. Vâng, đây không phải là phiên tòa văn minh của thế
kỷ 21”. Chẳng còn gì để nói, đành mượn thơ nói hộ vậy.
Trong bài “Thơ nhậu” làm trên bãi biển Hà Tĩnh dạo tháng 4
năm nay, sau khi khuyên “ăn cá, ăn tôm, ăn mực… đi anh/ nếu có chết thì tháng
sau, tuần sau, hay hôm sau mới chết”, Nguyễn Duy với cái cười của máu chảy trên
đầu ngọn bút mà rằng “ăn Nghị quyết đi anh/ nếu có chết, nhiệm kỳ sau mới chết”
thì chẳng phải đã “ăn bằng niềm tin” thì còn ăn cái gì nào? “Ăn” phải cái này
thì chất độc còn ngấm sâu vào não trạng và tâm hồn, chứ chất độc trong cá e
không có sức tác động ghê gớm như thế.
Và đâu chỉ một Nguyễn Duy “ăn” nghị quyết để “nhiệm kỳ sau mới
chết”, mà vì chưa chết ngay tắp lự nên vẫn cón tí tởn làm thơ. Thế nhưng Chế
Lan Viên, tác giả của câu thơ từng dậy sóng tâm hồn tuổi trẻ một thời “Hỡi sông
Hồng tiếng hát bốn nghìn năm/ Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng”, “Dẫu có bay
giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút bây giờ/ Buổi đất nước của Hùng
Vương có Đảng” viết năm 1965, thì trong Di cảo của hơn 40 năm sau, ông đã phải
viết về chuyện “ăn” cái “Bánh Vẽ” trong giằng xé, đớn đau:
Chưa cần cầm lên nếm,
anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...
Vâng, liệu chúng ta có đang nhai ngồm ngoàm cái bánh dù biết
chắc đó là bánh vẽ.
Không chỉ ngồm ngoàm nhai mà còn cố nhịn nhục một cách vô sỉ
để quyết “không ra khỏi tiệc”. Để gì? Để chờ có ngày “còn dịp nhai thứ thiệt”!
Thứ thiệt cần nhai là thứ gì đây? Văn hóa khinh bỉ tham nhũng chăng? Hay văn
hóa của cuộc “dâu bể đa đoan” làm sao cho “có liêm sỉ và có khát vọng cống hiến”
để mà “trao mái chèo” đặng còn nhai ngồm ngoàm những lời mị dân chăng?
Một sự chờ đợi vô vọng. Tuy biết vô vọng mà vẫn chờ! Mà chỉ
chờ, dù không biết đang chờ cái gì chứ không dám hành động để tìm một lối
thoát, một bung phá để đi tới… Xem ra, “những người khác thấy anh ngồi, Họ cũng
ngồi thôi” có hơi hướng của “Đợi chờ Gôđô” (“En attendant Godot”) của Samuel
Beckett, nhà văn Pháp gốc Ireland, nhận giải Nobel văn chương năm 1969, thuộc
trường phái kịch phi lý giữa thế kỷ XX của Châu Âu.
Thế nhưng “Đợi chờ Gôđô” khiến người xem buộc phải suy ngẫm
lại chính mình, dần dần thấy ra sự vô nghĩa của một cuộc sống tầm gửi, không lối
thoát. Còn ở đây, nhà thơ của một thời từng tự khẳng định “xưa phù du mà nay đã
phù sa” để rồi khi chạm đến cái sự thật nghiệt ngã lại tự dựng lên cái thần
thái phù du song thảm hại hơn về sự băng hoại của chính mình: “Rốt cuộc anh lại
ngồi vào bàn/ Như không có gì xảy ra hết” để tiếp tục “nhai ngồm ngoàm”! Sự phản
tỉnh muộn màng nhưng đã đủ dữ dội của giằng xé và phẫn nộ.
Vì thế, nếu bàn về niềm tin thì hãy tin vào sự phản tỉnh của
lòng phẫn nộ đang nén chặt lại để đủ sức bung bật ra.
Ngày 25.9.2016
T. L.
Tác giả gửi BVN.
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét