Người dịch: Phan Văn Song
Nguồn: Andrew J. Nathan,
“Who Is Xi?“, New York Review of Books, 12/05/2016.
Hơn một nửa nhiệm kỳ 5 năm đã qua với tư cách là chủ tịch
Trung Quốc và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc — dự kiến sẽ là nhiệm kỳ đầu
trong ít nhất hai nhiệm kỳ— việc Tập Cận Bình đàn áp lan rộng đối với xã hội
dân sự và đề cao tệ sùng bái cá nhân đã làm thất vọng nhiều nhà quan sát, cả
Trung Quốc lẫn nước ngoài, vốn thấy ông ta do di sản gia đình và kinh nghiệm sống
nhất định phải là một nhà cải cách tự do. Nhiều người nghĩ Tập Cận Bình tất phải
hiểu được sự nguy hiểm của sự độc tài của Đảng qua kinh nghiệm gia đình ông dưới
thời cai trị của Mao. Cha ông, Tập Trọng Huân (1913-2002), đã gần như bị xử tử
trong một cuộc xung đột bên trong Đảng năm 1935, đã bị thanh trừng trong một cuộc
đấu khác vào năm 1962, bị “lôi ra” và chịu nhục hình trong cuộc Cách mạng Văn
hóa, và đã được cho nghỉ hưu sau một cuộc đối đầu khác trong Đảng năm 1987.
Trong cuộc Cách mạng Văn hóa, một chị cùng cha khác mẹ của Tập Cận Bình đã bị
dày vò đến mức phải tự tử. Ngay chính Tập Cận Bình, con của một “kẻ chạy theo
tư bản”, đã bị “đưa về nông thôn” để lao động cùng với nông dân. Những khó khăn
gay gắt đến mức ông được cho là đã cố để trốn thoát, nhưng bị bắt và đưa trở lại.
Không ngạc nhiên là sau đó cả hai cha con đều cho thấy một sự
hết lòng vì công cuộc cải cách trong suốt sự nghiệp của họ. Dưới thời Đặng Tiểu
Bình, ông Tập cha đã tiên phong trong cải cách mở cửa ở tỉnh Quảng Đông phía
nam và đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập đặc khu kinh tế Thẩm
Quyến. Năm 1987, chỉ có một mình ông trong các uỷ viên Bộ Chính trị không bỏ
phiếu thanh trừng nhà lãnh đạo Đảng tự do Hồ Diệu Bang. Chàng Tập con khởi nghiệp
như là một nhà quản lý khiêm tốn, thực dụng, ủng hộ tăng trưởng, lúc đầu ở vùng
nông thôn và sau đó ở Phúc Kiến, Chiết Giang và Thượng Hải, ba tỉnh cởi mở với
thế giới bên ngoài nhất của Trung Quốc. Trong chặng cuối cùng của hành trình
leo lên quyền lực, ông đã được ưu ái chọn hơn đối thủ Bạc Hy Lai, người đã đề
cao các chính sách theo kiểu Cách mạng Văn hoá tại siêu đô thị Trùng Khánh.
Vì tất cả những lý do này, khi thăng tiến lên vị trí chóp bu
Tập Cận Bình đã được nhiều người dự kiến sẽ theo đuổi tự do hóa chính trị và cải
cách thị trường. Thay vì vậy, ông đã khôi phục rất nhiều đặc điểm nguy hiểm nhất
trong cách cai trị của Mao: độc tài cá nhân, tuân thủ ý thức hệ cưỡng bức, và bức
hại tùy tiện.
Chìa khóa cho nghịch lý này là việc Tập Cận Bình có vẻ tôn
kính một cách phi lý Mao. Quan điểm của Tập Cận Bình về Mao lộ ra trong tiểu sử
chính thức của cha ông do các học giả của Đảng biên soạn, mà tập một được xuất
bản khi Tập Cận Bình gần nắm được quyền tối thượng và tập hai ra sau khi ông đã
trở thành Tổng bí thư đảng và Chủ tịch nước. Mô tả việc ông Tập cha gần như bị
xử tử năm 1935, cuốn sách nói rằng Mao đã cứu mạng ông ta, ra lệnh thả ông ra với
nhận xét rằng đầu không giống như hành lá: nếu cắt ra nó sẽ không mọc trở lại.
Mao sau đó đề cử Tập Trọng Huân làm một quan chức ở Diên An và sau năm 1949 làm
quan chức hàng chóp bu ở Bắc Kinh.
Đối với việc thanh trừng Tập Trọng Huân năm 1962, cuốn tiểu
sử đổ lỗi cho Khang Sinh (康生/Kang Sheng), trưởng mật vụ của Mao, chứ không phải là
cho chính Mao, và cho rằng Mao đã bảo vệ Tập Trọng Huân bằng cách đưa ông ta đến
làm việc tại một nhà máy ở tỉnh an toàn cách xa khỏi cơn bão chính trị ở Bắc
Kinh. Khi cuộc Cách mạng văn hóa nổ ra một vài năm sau đó và Hồng vệ binh “lôi”
Tập Trọng Huân ra khỏi việc làm ở nhà máy này để hành hạ thể xác và “đấu
tranh”, cuốn tiểu sử nói rằng thủ tướng Chu Ân Lai đã cho giam họ Tập trong một
doanh trại quân đội gần Bắc Kinh như một cách để bảo vệ ông ta. Không nghi ngờ
những câu chuyện này được xoa nắn lại để trình bày Mao theo cách Tập Cận Bình
muốn ông ta được thấy. Nhưng chúng có căn cứ trong thực tế lịch sử và giúp giải
thích sự phức tạp của mối quan hệ của Tập Cận Bình với di sản của Mao. Như Tập
Cận Bình nói mấy năm sau, “Nếu Mao không cứu cha tôi thì tôi không có mặt ở đây
ngày hôm nay.”
Việc Tập Cận Bình tôn thờ Mao không phải là điều dị thường
riêng lẻ. Nó cũng được nhiều người trong giới quý tộc cộng sản kế thừa chia sẻ
mà họ, như Agnès Andresy chỉ ra trong cuốn sách về Tập Cận Bình, vốn hình thành
nên hầu hết lãnh đạo chóp bu cũng như phần lớn giới chủ chốt doanh nghiệp của
Trung Quốc hiện nay. Hồi năm 1981 Đặng Tiểu Bình tuyên bố rằng công của Mao vượt
hơn tội (trong một ý kiến không chính thức) theo“tỉ lệ 7 trên 3.” Nhưng trong
thực tiễn Đặng Tiểu Bình từ bỏ gần như mọi thứ mà Mao cổ vũ. Trái ngược với sự
đồng thuận của phương Tây rằng Đặng Tiểu Bình đã cứu hệ thống sau khi gần như bị Mao làm chìm, Tập Cận Bình và rất
nhiều quý tộc đỏ khác cảm thấy rằng chính Đặng Tiểu Bình đã đi gần đến chỗ huỷ
diệt di sản của Mao.
Việc họ tôn thờ Mao khác biệt với những hoài niệm đơn giản của
các cựu Hồng vệ binh và các thanh niên được phái xuống vốn nhớ mơ hồ về một
giai đoạn của chủ nghĩa lý tưởng chưa trưởng thành. Thay vì vậy, như nhà tư tưởng
ủng hộ dân chủ Lý Vĩ Đông (李伟东/Li Weidong) viết trong một bài tiểu luận được bàn luận nhiều
trên mạng, “’Con đường của Đế quốc Đỏ’ không thể đi qua”, con cái của các công
thần sáng lập tự coi mình là người thừa kế “thiên hạ“, một thế giới rộng lớn mà
cha mẹ họ đã chinh phục dưới sự lãnh đạo của Mao. Cha mẹ họ có gốc gác ở các
vùng nông thôn nghèo nàn và đứng lên cai trị một đế chế. Thế hệ thứ hai hưởng đặc
quyền sống trong một đất nước vốn đã “vươn dậy” và được toàn cầu tôn trọng và nể
sợ. Họ không trù định làm thế hệ “đánh mất đế quốc.”
Chính logic này đã thúc đẩy Lưu Nguyên (刘源/Liu
Yuan), con trai cựu chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, người bị Mao thanh trừng và đưa đến
một cái chết đau khổ, hậu thuẫn Tập Cận Bình trong việc làm sống lại các ý tưởng
và các biểu tượng của Mao; và cũng logic này đã chuyển con cái của nhiều nạn
nhân nổi bật khác của Mao hình thành nên các nhóm tôn vinh di sản của Mao, như
Hiệp hội con cái của Diên An Bắc Kinh và Hiệp hội đề cao văn hóa của những nhà
sáng lập Quốc gia Bắc Kinh.[i]
Các thái tử đảng dường như hiểu theo nghĩa đen sinh học về
“huyết thống luận” về sự tinh khiết chính trị vốn phổ biến trong giới con cái
các Hồng vệ binh chủ chốt trong cuộc Cách mạng văn hóa: “Nếu cha là anh hùng
con sẽ là hảo hán, nếu cha là phản động con sẽ là trứng thối” (老子英雄儿好汉,老子反动儿混蛋/laozi
yingxiong er haohan, laozi fandong er huaidan: Lão tử anh hùng nhân hảo hán,
lão tử phản động nhân hỗn đản). Họ không thấy có chút mai mỉa khi cổ vũ Tập Cận
Bình tấn công các quan chức tham nhũng dù Mao đã thanh trừng chính cha mẹ họ
như là những “kẻ chạy theo tư bản nắm quyền lực.” Họ bào chữa rằng việc thanh
trừng của Mao là một sai sót. Nhưng họ thấy các quan chức hiện nay đổ vào phục
vụ Đảng là vì đảng đang nắm quyền lực chứ không phải vì họ được thừa hưởng tinh
thần hy sinh cách mạng từ cha ông. Bọn cơ hội đó là sâu mọc đang ăn mòn di sản
cách mạng.
Di sản của Mao cũng đang bị các thế lực khác đe dọa. Tập Cận
Bình nắm quyền vào một thời điểm mà chế độ phải đối đầu với một loạt các thách
thức gay gắt vốn đều đạt đến giai đoạn nguy cấp cùng một lúc. Chế độ phải quản
lý một nền kinh tế chậm lại; phải xoa dịu hàng triệu công nhân bị sa thải; phải
chuyển nhu cầu từ các thị trường xuất khẩu sang tiêu thụ trong nước; phải xốc lại
các doanh nghiệp nhà nước khổng lồ hoạt động kém hiệu quả; phải xua tan một đống
các khoản nợ xấu và các khoản đầu tư không hiệu quả đang treo lơ lửng; phải cải
thiện tình trạng biến đổi khí hậu và sự tàn phá môi trường vốn làm tầng lớp
trung lưu mới khó chịu; và phải giảm quy mô và nâng cấp quân đội. Về mặt quốc tế,
các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc thấy chính mình bị buộc phải đáp lại một
cách quả quyết áp lực ngày càng tăng từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, và các chế độ Đông
Nam Á khác nhau đang cố gắng chống lại việc bảo vệ một cách chính đáng của
Trung Quốc đối với các lợi ích ở những nơi như Đài Loan, quần đảo Senkaku, và
Biển Đông.
Lãnh đạo nào đối mặt với rất nhiều vấn đề lớn phải cần rất
nhiều quyền lực, và Mao cung cấp một mô hình về cách mà quyền lực như thế có thể
được nắm giữ. Tập Cận Bình lãnh đạo Đảng, Nhà nước, và hệ thống thứ bậc quân sự
qua vị trí chủ tịch ở mỗi tổ chức này. Nhưng hai người tiền nhiệm liền trước của
ông, Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào, thực hiện các vai trò này trong hệ thống
lãnh đạo tập thể, trong đó mỗi uỷ viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị phụ trách một
chính sách hay tổ chức cụ thể và hướng dẫn nó mà không có sự can thiệp nhiều từ
các quan chức cấp cao khác.
Mô hình này không tạo ra quyền lãnh đạo đủ mang tính quyết định
để đáp ứng Tập Cận Bình và những kẻ ủng hộ ông. Vì vậy, Tập Cận Bình đã phải
cho các uỷ viên khác của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, đứng bên lề ngoại trừ trưởng
ban tuyên truyền Lưu Vân Sơn (刘云山/Liu Yunshan) và Trưởng ban giám sát chống tham nhũng
Vương Kỳ Sơn (王岐山/Wang
Qishan). Ông đã nắm vị trí chủ tịch của 7 tổ quan trọng nhất trong 22 “tổ lãnh
đạo” chỉ đạo chính sách trong các lĩnh vực cụ thể, bao gồm Tổ lãnh đạo tăng cường
cải cách toàn diện trung ương mới thành lập, tổ này đã loại Thủ tướng Lý Khắc
Cường ra khỏi việc quản lý kinh tế. Và Tập Cận Bình đã lập ra Hội đồng An ninh
Quốc gia để điều phối các vấn đề an ninh nội bộ.
Tập Cận Bình mô phỏng Mao trong việc thực hiện quyền lực
thông qua một nhóm thân cận các trợ lý mà ông có thể tin cậy do họ đã chứng tỏ
lòng trung thành cá nhân của họ trong những giai đoạn đầu tiên trong sự nghiệp
của ông, chẳng hạn như Lật Chiến Thư (Li Zhanshu), chủ nhiệm Văn phòng của Ủy
ban Trung ương ĐCSTQ đầy quyền lực. Như học giả Lý Thành (Cheng Li) nêu trong
China Leadership Monitor, Lật Chiến Thư công bố một bài báo hồi tháng 9 năm
2014, nói rằng làm việc như một trợ lý trong việc xây dựng chính sách đòi hỏi
“sự trung thành tuyệt đối” và rằng nhân viên trong tổng văn phòng “nên hành động
và suy nghĩ theo cách phù hợp cao nhất… với các mệnh lệnh từ Uỷ ban Trung ương
do Tổng Bí thư Tập Cận Bình lãnh đạo.”[ii] Những người được Tập Cận Bình bảo trợ
chiếm các vị trí trọng yếu trong bộ máy phụ trách về an ninh, giám sát công việc
các quan chức, và tuyên truyền. Không giống như các nhân viên nhiều quyền lực
trong chính quyền trước đây, các trợ lý của ông tránh tiếp xúc với người nước
ngoài và thậm chí với các quan chức bên ngoài nhóm riêng của Tập Cận Bình.
Tập Cận Bình cũng đi theo mô hình của Mao trong việc bảo vệ
quyền cai trị của mình chống lại đảo chính. Chiến dịch chống tham nhũng đã làm
cho ông có rất nhiều kẻ thù, và đã có nhiều tin đồn về các âm mưu ám sát. Tuy
nhiên, như James Mulvenon và Cheng Li đã chỉ ra, Tập Cận Bình đã thắt chặt kiểm
soát trực tiếp quân đội qua cái gọi là “Chủ tịch Phụ trách chế [Quân ủy Trung
ương]”, và ông kiểm soát quân đoàn bảo vệ trung ương – chịu trách nhiệm theo
dõi sự an toàn của tất cả các lãnh đạo — thông qua vệ sĩ trưởng lâu năm, Vương
Thiếu Quân (Wang Shaojun).[iii] Theo những cách này Tập Cận Bình kiểm soát môi
trường thực tế của các lãnh đạo khác, cũng giống như Mao đã làm thông qua thuộc
hạ trung thành Uông Đông Hưng.
Tập Cận Bình truyền sự tự tin kiểu Napoleon vào tầm quan trọng
của nhiệm vụ của ông và sự thành công tất yếu của nó. Trong giao tiếp cá nhân
ông được cho là niềm nở và thoải mái. Nhưng hình ảnh trước công chúng được chăm
chút cẩn thận của ông lại đi theo Mao trong việc thể hiện sự có mặt dửng dưng
và vẻ mặt bất động mà việc đó dường như để truyền dẫn sự chịu đựng hoặc sự khó
xiêu lòng, tùy thuộc vào việc ông đang ngồi nghe một phát biểu nhàm chán hoặc
đang đưa ra một phát biểu. Các cơ quan tuyên truyền cố sức để tạo ra một hình ảnh
“Bố Tập” gần gũi, và Tập Cận Bình có vẻ thực sự được công chúng ngưỡng mộ, mặc
dù điều này đã thay đổi khi nền kinh tế chậm lại.[iv] Nhưng chiến dịch chống
tham nhũng ảnh hưởng đến rất nhiều người của ông còn đang tiếp tục, giới chủ chốt
trong quan chức và trí thức hàng đầu coi biểu hiện của ông như là bí hiểm và
đáng sợ.
Trên hết, Tập Cận Bình đã theo Mao trong đòi hỏi tuân thủ về
ý thức hệ. Ông đã viện dẫn “Bài nói tại Diễn đàn Diên An về Văn học và Nghệ thuật”
của Mao trong việc giải thích lý do tại sao văn hóa và nhân viên truyền thông
phải thể hiện “tính Đảng” và phục vụ như là “miệng lưỡi” của Đảng và đã sử dụng
nghị quyết mà Mao đã viết cho của Hội nghị Đảng ở Cổ Điền (古田/Gutian)
năm 1929 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc Đảng kiểm soát quân đội. Ông đã cảnh
báo các đảng viên chống lại việc “bàn luận vô trách nhiệm” (枉议/wangyi: uổng
nghị) và cảnh báo các học giả không được ủng hộ các “giá trị phổ quát.” Như
David Shambaugh báo cáo trong cuốn sách gần đây của ông China’s Future (Tương
lai của Trung Quốc):
Hiện đã có một chiến dịch đàn áp không ngừng đối với tất cả
các dạng bất đồng chính kiến và các nhà hoạt động xã hội; Internet và các
phương tiện truyền thông xã hội đã phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn; thánh
giá và nhà thờ bị phá hủy; người Duy Ngô Nhĩ và người Tây Tạng bị bức hại ngày
càng lớn hơn; hàng trăm luật sư nhân quyền đã bị bắt giữ và đưa ra xét xử; tụ họp
công cộng bị hạn chế; nhiều loại ấn phẩm bị kiểm duyệt; sách giáo khoa nước
ngoài bị chính thức bị cấm ở các lớp học đại học; trí thức bị đặt dưới sự giám sát chặt chẽ; các tổ chức phi
chính phủ (NGO) nước ngoài và trong nước đã chịu áp lực điều tiết của chính phủ
chưa từng có và nhiều tổ chức đã bị buộc phải rời khỏi Trung Quốc; các cuộc tấn
công vào các “thế lực thù địch nước ngoài” diễn ra đều đặn; và bộ máy an ninh
“duy trì sự ổn định” đã che kín toàn đất nước …. Trung Quốc hiện nay hà khắc
hơn bất cứ lúc nào kể từ thời kỳ sau Thiên An Môn 1989-1992.
Nhưng Tập Cận Bình khác với Mao theo những cách quan trọng. Ông
có thông tin chính xác hơn Mao, nhờ hệ thống tình báo và phân tích mở rộng, có
tổ chức, và chuyên nghiệp, và nhờ vào những gì ông đã thu thập được trong chuyến
đi trong nước và ra nước ngoài. Ông dùng kiểu toà án nội bộ Đảng và kết tội
tham nhũng hơn là hò hét Hồng vệ binh và cáo buộc xét lại để thanh trừng đối thủ,
và dùng công an chính trị hơn là phong trào quần chúng để đàn áp bất đồng chính
kiến. Mao là một nhà tư tưởng và tác giả văn học; Tập Cận Bình có những ý tưởng
tầm thường nhưng có chủ ý và phù hợp hơn trong việc ra quyết định. Thói quen cá
nhân của ông có vẻ có trật tự so với cung cách hỗn loạn của Mao trong việc sử dụng
thời gian. Sau cuộc hôn nhân thất bại ngắn ngủi đầu, Tập Cận Bình lập gia đình ổn
định với Bành Lệ Viên (彭丽媛/Peng Liyuan), một ca sĩ nổi tiếng khởi nghiệp trong quân đội.
Quan hệ của họ có vẻ theo ước lệ nhàm chán; thậm chí ở thành phố Bắc Kinh đầy
tin đồn cũng không có gì nổi lên cho thấy rằng ông là một kẻ ham thích sắc dục
như Mao. (Cũng không có những tin đồn tạo ra những cáo buộc rằng cá nhân Tập Cận
Bình là tham nhũng, mặc dù Bloomberg News cho thấy chị và anh rể của ông đã làm
ra rất nhiều tiền.[v])
Và Tập Cận Bình không là nhà cách mạng. Ông không hề tìm
cách đảo lộn Trung Quốc cũng không quay ngược đồng hồ trở lại thời công xã nông
thôn và nền kinh tế kế hoạch. Thay vào đó, ông tuyên bố, không được phép phủ nhận
“hai thời kỳ ba mươi năm” ”— tức là kỷ nguyên của Mao và thời kỳ cải cách hậu
Mao sau đó. Trung Quốc phải kết hợp sự vững chắc của chủ nghĩa Mao với cải cách
hiện đại hóa.
Tuy nhiên, cải cách mà ông có trong đầu khác với những gì
nhiều nhà quan sát, cả Trung Quốc lẫn phương Tây, mong muốn. Sau khi tiến lên vị
trí quyền lực, tuyên ngôn chính sách đầu tiên do chế độ của ông đưa ra nêu rằng
“thị trường nên đóng vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực,”
nhưng đã trở nên rõ ràng rằng các lực lượng thị trường được dùng có chủ ý như
là một công cụ để thêm sinh lực chứ không phải là để huỷ diệt, các doanh nghiệp
nhà nước và các tổ chức tài chính nhà nước “vô địch quốc gia” tiếp tục được hưởng
sự bảo trợ của nhà nước và chiếm phần lớn trong nền kinh tế. Tập Cận Bình hiểu
những tổ chức này là trụ cột của quyền lực nhà nước và sẽ không bao giờ giao
quyền kiểm soát nền kinh tế cho các doanh nghiệp mà Đảng không kiểm soát.
Tập Cận Bình muốn “pháp quyền”, nhưng điều này có nghĩa là sử
dụng các tòa án một cách tích cực để thực hiện việc đàn áp chính trị và thay đổi
phong cách làm việc của bộ máy quan chức. Ông muốn cải tổ các trường đại học,
không phải để tạo sự tự do học thuật kiểu phương Tây mà để đưa các học giả và
sinh viên vào vòng kiểm soát (kể cả những người nghiên cứu ở nước ngoài). Ông
đã phát động tổ chức lại toàn diện quân đội, điều này một phần có ý định là để
làm cho nó hiệu quả hơn trong chiến đấu, nhưng cũng là để tái khẳng định lòng
trung thành của quân đội với Đảng và cá nhân ông. Mục đích tổng thể của cải
cách là để giữ cho Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn nắm quyền lực.
Mục tiêu mà Tập Cận Bình nêu ra cho Trung Quốc là đạt được
“một xã hội tương đối khá giả” (小康社会/xiaokang shehui: tiểu khang xã hội)
vào dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày thành lập Đảng vào năm 2021, và “một xã hội hiện
đại hóa xã hội chủ nghĩa” (社会主义现代化社会/shehuizhuyi xiandaihua shehui: xã hội chủ nghĩa hiện đại
hoá xã hội) vào dịp kỷ niệm lần thứ 100 thành lập ngày thành lập nước CHND
Trung Hoa vào năm 2049.
Những mục tiêu này nghe có vẻ khiêm tốn nhưng táo bạo. Mục
tiêu cho năm 2049 được nói là bao hàm một mức GDP bình quân đầu người là 30.000
đô la Mỹ, và các nhà hoạch định Trung Quốc ước tính rằng nếu đạt được mục tiêu
đó thì Trung Quốc sẽ tạo ra hơn 30% GDP của thế giới trong năm đó, cao hơn khoảng
một lần rưỡi so với tỷ lệ do Hoa Kỳ tạo ra hiện nay. Điều đó sẽ tạo ra một quyền
lực toàn cầu rất lớn. Tuy nhiên, năm 2049 vẫn là một chặng đường dài. Còn bây
giờ, Tập Cận Bình sẽ không ngần ngại phản công nếu ông tin rằng “lợi ích cốt
lõi” của nước này xung quanh ngoại vi của nó đang bị đe dọa, nhưng ưu tiên của
ông về cơ bản vẫn là trong nước.
Tập Cận Bình đã tự làm mình mạnh mẽ hơn Đặng hay thậm chí
Mao trong một số cách. Dù Đặng là người có kết luận cuối cùng về các vấn đề
chính sách khó, nhưng ông ta vẫn cố gắng để tránh can dự vào chính sách hàng
ngày, và khi bị buộc phải đưa ra những quyết định lớn thì trước hết ông tìm sự
đồng thuận trong một nhóm nhỏ các lãnh đạo cấp cao. Mao có thể đưa ra bất kỳ
quyết định nào mà ông muốn bất chấp ý chí của các lãnh đạo cấp cao khác, nhưng
vào mỗi lúc ông chỉ chú ý đến một vài vấn đề. Tập Cận Bình có vẻ đang điều khiển
trọn một loạt chính sách quan trọng hàng ngày mà không cần tham khảo ý kiến các
lãnh đạo cấp cao khác hoặc các bậc lão thành về hưu.
Ông ta thậm chí có thể đi xa hơn nữa. Có những chỉ dấu gợi rằng
ông sẽ tìm cách phá vỡ hạn định hai nhiệm kỳ 5 năm nắm quyền mới được thiết lập
và sẽ ngồi tiếp một hoặc thậm chí nhiều nhiệm kỳ nữa. Ông đã tự chỉ định mình
là “cốt lõi” của ban lãnh đạo, một địa vị mà Hồ Cẩm Đào, người tiền nhiệm liền
trước đã không nắm lấy cho mình. Tại thời điểm này trong nhiệm kỳ đầu lãnh đạo
chúng ta mong thấy một hoặc hai chính trị gia trẻ tuổi mới nổi như người thừa kế
tiềm năng hiện ra, và sẽ được tấn phong trong Đại hội Đảng 19 năm tới, nhưng
chưa thấy có những dấu hiệu như vậy. Một trong những tin đồn lan truyền ở Bắc
Kinh là các đội biên tập viên đang biên soạn một cuốn sách về “tư tưởng”
(sixiang/思想)
của Tập Cận Bình, việc này sẽ đặt ông ta lên ngang hàng với Mao như một người
đóng góp cho lý thuyết Marxist của Trung Quốc, một địa vị mà chưa có người kế
nhiệm nào của Mao tới giờ nhận lấy.
Việc Tập Cận Bình chú tâm vào quyền lực đặt ra mối nguy hiểm
lớn cho Trung Quốc. Không ai nói lên điều đó tốt hơn Đặng Tiểu Bình, trong bài
phát biểu, “về việc Cải cách hệ thống Lãnh đạo Đảng và Nhà nước,” đưa ra vào
ngày 18 tháng 8 năm 1980:
Quá chú tâm vào quyền lực có khả năng làm nẩy ra sự cai trị
tùy tiện của cá nhân với cái giá phải trả cho lãnh đạo tập thể, và nó là một
nguyên nhân quan trọng lý giải bộ máy công chức trong tình cảnh hiện tại… . Kiến
thức, kinh nghiệm và năng lượng của bất cứ ai cũng đều có hạn. Nếu một người nắm
giữ quá nhiều vị trí cùng một lúc thì khó có thể hiểu thấu hết các vấn đề trong
công việc của mình và quan trọng hơn, sẽ ngáng đường các đồng chí thích hợp hơn
nắm các vị trí lãnh đạo.
Chính để tránh những vấn đề này mà Đặng Tiểu Bình đã xây dựng
một hệ thống các chuẩn mực ngầm theo đó các lãnh đạo cao cấp bị giới hạn chỉ
hai nhiệm kỳ, các uỷ viên ban Thường vụ Bộ Chính trị phân chia các vai trò lãnh
đạo với nhau, và các nhà lãnh đạo cấp cao đưa ra quyết định có tham khảo ý kiến
với các nhà lãnh đạo khác và những bậc lão thành đã về hưu.
Với việc đảo lộn hệ thống của Đặng Tiểu Bình, Tập Cận Bình
đang treo sự sống còn của chế độ vào khả năng của ông trong việc chịu một khối
lượng công việc khổng lồ và không phạm sai lầm lớn. Ông dường như đang dọa các
phương tiện truyền thông đại chúng và các quan chức ngoài nhóm thân cận không
được nói với ông sự thật. Ông đang cố kìm nén sự đa dạng ngày càng tăng của các
lực lượng xã hội và trí thức đang trên đà phát triển mạnh hơn. Ông có thể đang
phá vỡ, thay vì xây dựng nên sự đồng thuận trong giới chủ chốt kinh tế và trí
thức cũng như giới lãnh đạo chính trị về con đường phát triển của Trung Quốc. Với
việc chỉ đạo khởi tố tham nhũng Chu Vĩnh Khang, cựu uỷ viên ban Thường vụ Bộ
Chính trị về hưu, cùng với thuộc hạ của các quan chức cấp cao đã nghỉ hưu khác,
ông đã phá vỡ quy tắc rằng các lãnh đạo về hưu sẽ an toàn một khi rời khỏi chức
vụ, làm dấy lên câu hỏi liệu ông sẽ có thể an toàn khi rời khỏi chức vụ không.
Khi ông tách khỏi con đường của Đặng Tiểu Bình, ông có nguy cơ phá hoại khả
năng thích ứng và khả năng phục hồi mà những cải cách của Đặng Tiểu Bình đã
gian khổ tạo ra cho chế độ hậu Mao.
Khi các thành viên của nhóm quý tộc đỏ quanh Tập Cận Bình bọc
quanh các toa xe của họ để bảo vệ chế độ, một số công dân thu mình vào việc
sùng bái tôn giáo hoặc tiêu dùng cá nhân, những người khác thì gửi tiền của và
con cái ra nước ngoài, và một cảm giác sắp xảy ra khủng hoảng đang lan tỏa khắp
xã hội. Không ngạc nhiên là chế độ của Tập Cận Bình hành xử như thể nó phải đối
mặt với một đe dọa đang hiển hiện. Với sức mạnh và nguồn lực mà ông điều khiển,
sẽ là liều lĩnh để dự đoán rằng nỗ lực củng cố sự cai trị độc tài của ông sẽ thất
bại. Nhưng nỗ lực này có nguy cơ tạo ra chính cuộc khủng hoảng chính trị mà nó
tìm cách ngăn ngừa./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét