Tác giả: Phạm Văn Tuấn & Võ Thị Diệu Hằng
Tướng de Gaulle là một nhà lãnh đạo quân sự và một vị chính
khách của nước Pháp. Trước Thế Chiến Thứ Hai, ông nổi tiếng là một nhà chiến
thuật chủ trương dùng xe thiết giáp phối hợp với máy bay chiến đấu. Khi Thế Chiến
kể trên xẩy ra, ông de Gaulle mang cấp bậc Thiếu Tướng, là nhà lãnh đạo của
Chính Phủ Pháp Tự Do, hoạt động lưu vong tại nước Anh trong các năm từ 1944 tới
năm 1946.
Sau cuộc nổi dậy của một số tướng lãnh Pháp tại Algiers vào
năm 1958, Tướng de Gaulle đã kêu gọi thiết lập một hiến pháp mới và ông là Tổng
Thống đầu tiên của Nền Cộng Hòa Thứ Năm của nước Pháp, phục vụ từ năm 1958 tới
năm 1969.
Ý thức hệ chính trị của ông de Gaulle được gọi là chủ thuyết
de Gaulle (Gaullism) với đặc tính mong muốn nền độc lập quốc gia trong thời kỳ
Chiến Tranh Lạnh, với chủ trương kinh tế điều khiển và tự nguyện (economic
dirigisme and voluntarism). Đây là một phong trào xã hội bảo thủ (social
conservative movement). Chủ thuyết này đã gây ảnh hưởng lớn tới nền chính trị của
nước Pháp trong các năm về sau.
Thời Niên Thiếu
Charles de Gaulle là người con thứ ba trong 5 người con của
một gia đình bảo thủ, theo đạo Cơ Đốc La Mã (Roman Catholic). Cậu de Gaulle
chào đời ngày 22/11/1890 tại thành phố Lille, lớn lên tại thành phố Paris và
theo học trường Stanislas và cũng có một thời gian học hành tại nước Bỉ.
Gia đình bên cha có nguồn gốc quý tộc từ miền Normandy và
Burgundy nhưng đã định cư tại Paris một thế kỷ và chữ đệm “de” trong tên gọi
“de Gaulle” không phải là từ chỉ căn gốc quý tộc dù cho gia đình này thuộc loại
danh giá. Gia đình bên mẹ của cậu de Gaulle thuộc giới kinh doanh giàu có của
miền kỹ nghệ Lille trong vùng Flanders của nước Pháp.
Ông nội của cậu de Gaulle là một nhà sử học, còn bà nội là một
nhà văn, cha của cậu tên là Henri, là một giáo sư dạy Triết Học và Văn Chương của
các trường tư thục Cơ Đốc. Trong gia đình này thường hay có các cuộc tranh luận
chính trị bởi vì họ rất ái quốc và ngay từ thuở nhỏ, cậu de Gaulle đã được cha
mẹ dạy dỗ tinh thần quốc gia và hướng dẫn đọc các sách của các tác giả bảo thủ.
Mặc dù mang nặng tính bảo thủ, gia đình này cũng tôn trọng luật pháp và các định
chế của nước cộng hòa nhưng các tư tưởng xã hội và chính trị còn mang đặc tính
cởi mở, ảnh hưởng bởi đạo Thiên Chúa La Mã, với tinh thần rộng lượng, hay giúp
đỡ và tôn trọng truyền thống.
Theo Binh Nghiệp
1912-1940
Cậu Charles de Gaulle sau khi học xong bậc trung học, đã chọn
con đường binh nghiệp, đã theo học 4 năm tại trường Quân Sự Saint-Cyr. Tốt nghiệp
năm 1912, Thiếu Úy de Gaulle tham gia một trung đoàn bộ binh chỉ huy do Đại Tá
Philippe Pétain. De Gaulle là một sĩ quan trẻ, thông minh, làm việc chăm chỉ và
rất can đảm. Trong Thế Chiến Thứ Nhất, Trung Úy de Gaulle đã chiến đấu tại
Verdun, 3 lần bị thương và bị bắt làm tù binh trong 2 năm 8 tháng, trong thời
gian bị cầm tù này, chàng de Gaulle đã tìm cách vượt ngục 5 lần nhưng không
thành công.
Khi Thế Chiến Thứ Nhất chấm dứt, chàng de Gaulle vẫn còn
trong quân ngũ, làm việc tại các bộ tham mưu của các Tướng Maxime Weygand và
Philippe Pétain. Khi cuộc chiến tranh Ba Lan – Xô Viết xẩy ra (1919-1921), ông
de Gaulle tình nguyện vào Phái Bộ Quân Sự Pháp tại Ba Lan (the French Military
Mission to Poland) và đã là một huấn luyện viên quân sự cho Bộ Binh Ba Lan. Đại
Úy de Gaulle đã hoạt động rất xuất sắc trong các cuộc hành quân gần giòng sông
Zbrucz và đã được trao tặng một huy chương quân sự cao cấp nhất của Ba Lan: Huy
Chương Virtuti Militari.
Vào năm 1927, ông de Gaulle được thăng cấp lên Thiếu Tá và
được đề nghị ở lại Ba Lan, nhưng ông đã lựa chọn việc trở về nước Pháp để phục
vụ với chức vụ sĩ quan tham mưu của Hội Đồng Chiến Tranh Cao Cấp (Conseil
Supérieur de la Guerre = Supreme War Council) đồng thời ông cũng giảng dạy tại
một trường quân sự và Thiếu Tá de Gaulle trở nên một sĩ quan được Tướng Pétain
bảo trợ.
Ông de Gaulle đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của cuộc chiến
tranh Ba Lan- Xô Viết, nên ông chủ trương dùng nhiều xe tăng, dùng cách vận
chuyển nhanh chóng và giới hạn cách dùng chiến luỹ. Ông cũng học hỏi được nhiều
bài học từ vị Thống Chế Jozef Pilsudski của nước Ba Lan, đây là nhân vật mà trước
đó vài thập niên, đã từng chủ trương tạo dựng một liên bang châu Âu.
Căn cứ vào các nhận xét từ cuộc chiến tranh tại Ba Lan, ông
de Gaulle đã viết nhiều bài báo và cho xuất bản nhiều cuốn sách, đặc biệt là cuốn
“Về Đạo Quân Chuyên Nghiệp” (Vers l’ Armée de Metiers = Towards the
Professional Army, 1934). Trong tác phẩm này, ông de Gaulle đã đề nghị một loại
quân đội cơ giới chuyên nghiệp với các sư đoàn thiết giáp đặc biệt, hơn là dùng
cách phòng thủ tại chỗ, điển hình là Chiến Lũy Marginot.
Các quan điểm chiến thuật tương tự đã được nhiều nhà quân sự
tài giỏi đề cập tới: J.F.C. Fuller của nước Anh, Dwight D. Eisenhower và George
S. Patton của nước Mỹ, Heinz Guderian của nước Đức, Mikhail Tukhachevsky của nước
Nga và Wladyslaw Sikorski của nước Ba Lan, nhưng các lý thuyết quân sự tân tiến
của ông de Gaulle đã bị các sĩ quan cao cấp người Pháp bác bỏ, kể cả vị thầy cũ
là Tướng Philippe Pétain, và rồi các liên lạc giữa ông de Gaulle với các cấp
trên trở nên xấu đi, ngoại trừ với ông Paul Reynaud.
Như vậy trong 2 thập niên 1920 và 1930, do các quan điểm táo
bạo, Thiếu Tá de Gaulle đã bất hòa với các nhà lãnh đạo quân sự Pháp, vì vậy
cho tới khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, ông de Gaulle chỉ là một vị Trung Tá.
Ngày 15/5/1940, Trung Tá de Gaulle được giao trách nhiệm chỉ huy Sư Đoàn 4 Thiết
Giáp (the 4th Armoured Division).
Ngày 17/ 5/1940, đạo quân của Trung Tá de Gaulle đã tấn công
các lực lượng chiến xa Đức tại Montcornet. Với 200 chiến xa và không có máy bay
khu trục yểm trợ, cuộc tấn công này đã không cản được bước tiến của quân xâm
lăng Đức, nhưng đến ngày 28/5, các lực lượng thiết giáp của Trung Tá de Gaulle
đã khiến cho bộ binh Đức phải rút lui tại Caumont. Đây chỉ là một trong số rất
ít các chiến thắng của quân đội Pháp trong suốt cuộc chiến. Nhờ chiến thắng kể
trên, ông de Gaulle được Thủ Tướng Pháp Paul Reynaud thăng chức Thiếu Tướng và
từ nay, ông được mọi người gọi là “Tướng de Gaulle”.
Ngày 6/6/1940, Thủ Tướng Paul Reynaud bổ nhiệm Tướng de
Gaulle làm Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng và Chiến Tranh, rồi cử ông lo việc phối hợp
với nước Anh. Vì chỉ là một nhân viên cấp thấp trong Chính Phủ Pháp, Tướng de
Gaulle đã không thành công khi phản đối việc nước Pháp đầu hàng Quân Đội Đức Quốc
Xã. Ông đã không thuyết phục được chính phủ này di tản qua Bắc Phi để tiếp tục
chiến đấu từ các thuộc địa của nước Pháp.
Tại nước Anh, Tướng de Gaulle là sĩ quan liên lạc với chính
quyền Anh và ông đã đề nghị với Thủ Tướng Churchill vào ngày 16/6 tại London,
công cuộc kết hợp chính trị giữa nước Pháp và nước Anh. Khi chính phủ Pháp tạm
thời dời về thành phố Bordeaux, Tướng de Gaulle đã dùng máy bay quay về nơi này
và được biết tin rằng Tướng Pétain đã trở nên Thủ Tướng cùng với ý định tìm kiếm
cách đình chiến với quân đội Đức Quốc Xã.
Vào ngày 16/6 này, Tướng de Gaulle đã thực hiện một quyết định
quan trọng nhất trong cuộc đời của ông và trong lịch sử mới của nước Pháp: ông
từ chối chấp nhận nước Pháp đầu hàng và ông nổi loạn, chống lại chính quyền
Pétain, khi đó được coi là hợp pháp. Tướng de Gaulle đã kêu gọi mọi người dân
Pháp tiếp tục công việc chiến tranh chống lại nước Đức của Adolf Hitler.
Vào sáng ngày 17/6/1940, với 100,000 đồng quan Pháp do ông
Paul Reynaud giao cho đêm hôm trước, Tướng de Gaulle lên máy bay, trốn khỏi
thành phố Bordeaux, tránh được sự truy lùng của máy bay Đức và chiều hôm đó,
ông đã hạ cánh xuống thành phố London. Từ nay, Tướng de Gaulle bác bỏ việc nước
Pháp đầu hàng và ông bắt đầu xây dựng một phong trào kêu gọi mọi thành phần
Pháp hải ngoại đoàn kết để chống lại quân Đức Quốc Xã. Như vậy từ nay bắt đầu
cuộc nội chiến Pháp giữa chính phủ Vichy đứng về phe Trục và nước Pháp Tự Do
(the Free France) đứng đầu do Tướng de Gaulle, với lập trường bác bỏ cuộc đình
chiến và tham gia vào các lực lượng Đồng minh để chống quân Đức.
Lãnh đạo các Lực
Lượng Pháp Tự Do 1940-45
Ngày 18/6/1940, Tướng de Gaulle chuẩn bị nói chuyện với dân
chúng Pháp qua đài phát thanh BBC đặt tại thành phố London. Nội Các Anh muốn
ngăn cản cuộc nói chuyện này nhưng Thủ Tướng Churchill đã chấp thuận. Tại nước
Pháp, theo lý thuyết thì trên toàn quốc, người dân Pháp đều nghe được “Lời Kêu
Gọi ngày 18 tháng 6” (Appeal of 18 June) của Tướng de Gaulle, nhưng trên thực tế,
chỉ một số nhỏ người dân Pháp đã nghe được lời tuyên cáo này bởi vì Tướng de
Gaulle chưa được nổi danh, đài BBC được ít người dân Pháp theo dõi và hàng triệu
dân chúng Pháp hiện đang trên đường chạy loạn. Ngoài ra, có người còn cho rằng
lời kêu gọi của ông de Gaulle mang tính viển vông. Tướng de Gaulle đã từng nói:
“Nước Pháp đã thua trận, nhưng chưa thua cuộc chiến”, câu này đã thể hiện tinh
thần kháng chiến của Tướng de Gaulle cùng với câu: “Ngọn lửa của Kháng Chiến
Pháp sẽ không hề bị dập tắt” trong khi đó, nhiều sĩ quan Pháp cho rằng họ không
còn nguyên liệu nào để chiến thắng, thì các lời kêu gọi của Tướng de Gaulle chỉ
mang tính cách vận động tinh thần.
Tuy nhiên, các phần trích yếu lời kêu gọi kháng chiến của Tướng
de Gaulle đã xuất hiện trên các báo chí Pháp xuất bản tại miền Nam, là nơi chưa
bị quân Đức kiểm soát và lời kêu gọi kể trên còn được đài BBC nhắc lại trong
các đêm kế tiếp.
Tại nước Pháp, trong hoàn cảnh hỗn độn và hoang mang, tin tức
về một vị Tướng tại thành phố London, không chấp nhận đầu hàng và tiếp tục chiến
đấu, sự việc này đã được truyền miệng từ người này sang người khác. Cho tới
ngày nay, các lời kêu gọi này của Tướng de Gaulle này là một trong các bài diễn
văn danh tiếng nhất trong Lịch Sử của nước Pháp.
Vào thời gian của năm 1940, Hoa Kỳ tiếp tục công nhận chính
phủ Vichy của nước Pháp mà người đứng đầu là Thống Chế Pétain, trong khi đó
chính quyền của nước Anh ủng hộ Tướng de Gaulle và công nhận chính phủ Pháp Tự
Do.
Ngày 4 tháng 7 năm 1940, một tòa án quân sự tại thành phố
Toulouse, nước Pháp, đã tuyên án Tướng de Gaulle bị 4 năm tù, rồi tòa án quân sự
thứ hai xử vào ngày 2/8/1940, kết án Tướng de Gaulle tử hình vì tội phản bội
chính quyền Vichy.
Trong khi đó, khi thương nghị với các nước Đồng Minh là Anh
và Hoa Kỳ, Tướng de Gaulle luôn luôn đòi hỏi được tự do hành động vì nước Pháp
và cũng vì thế, ông thường ở trong hoàn cảnh suýt bị các nước Đồng Minh cắt đứt
liên lạc. Tướng de Gaulle cũng thường xuyên nghi ngờ nước Anh đang tìm cách lén
lút tước đoạt các thuộc địa cũ của nước Pháp. Sự căng thẳng về liên lạc này đã
khiến cho có lần, bà Clementine Churchill, là người vẫn từng ngưỡng mộ Tướng de
Gaulle, đã phải nhắc nhở ông rằng: “Thưa Thiếu Tướng, ngài không nên ghét các bạn
của ngài hơn ghét các kẻ thù”. Và cũng có lần, Tướng de Gaulle đã xác nhận bằng
một câu danh ngôn: “Nước Pháp không có các bạn, chỉ có các quyền lợi”.
Hoàn cảnh mà Tướng de Gaulle không tin tưởng vào các ý định
của nước Anh và Hoa Kỳ đối với nước Pháp đã khiến cho các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ
trong một thời gian dài, đã không công nhận Tướng de Gaulle là đại diện của nước
Pháp Tự Do và họ muốn thương lượng với các đại diện cũ của chính phủ Vichy. Thủ
Tướng Churchill cũng có lần bình luận khi làm việc với Tướng de Gaulle rằng:
“Trong tất cả các thập gía mà tôi phải vác trên vai, thứ nặng nhất là Thập Giá
Lorraine” (đây là biểu tượng của nước Pháp Tự Do).
Sau cuộc đổ bộ của các toán quân Anh-Mỹ vào vùng Bắc Phi vào
tháng 11/1942, Tướng de Gaulle đã di chuyển Bộ Tham Mưu về Algiers vào tháng 5/1943,
để dễ dàng làm việc với Phong Trào Kháng Chiến Pháp và với các người ủng hộ
Phong Trào này tại các thuộc địa châu Phi. Ông trở nên một trong hai lãnh tụ, vị
kia là Tướng Henri Giraud, một nhân vật kém cứng dắn hơn và được Hoa Kỳ ưa
thích hơn, rồi sau đó, Tướng de Gaulle là Chủ Tịch của Ủy Ban Giải Phóng Quốc
Gia (the Committee of National Liberation).
Sau Chiến Dịch Overlord, nước Pháp được giải phóng dần dần,
Tướng de Gaulle liền nhanh chóng thiết lập chủ quyền của các lực lượng Pháp Tự
Do trên lãnh thổ Pháp, tránh né “Chính Quyền Quân Sự Đồng Minh cai trị các vùng
đất chiếm đóng” (Allied Military Government for Occupied Territories). Vào ngày
trước khi thành phố Paris được giải phóng, Tướng de Gaulle từ xứ Algeria, một
thuộc địa của nước Pháp, đáp máy bay trở về xứ và theo đoàn quân Đồng Minh tiến
vào thành phố Thủ Đô cùng với các nhân vật cao cấp Đồng Minh. Vào lúc này, ông
đã đọc một bài diễn văn nổi tiếng, nhấn mạnh vai trò của người dân Pháp trong
công cuộc giải phóng.
Sau khi trở lại Paris, Tướng de Gaulle di chuyển văn phòng về
Bộ Chiến Tranh và công bố tiếp tục Nền Cộng Hòa Thứ Ba (the Third Republic), đồng
thời bác bỏ tính cách hợp lệ của chính phủ Vichy.
Kể từ tháng 9/1944, Tướng de Gaulle được coi là Tổng Thống
(President) của Chính Phủ Lâm Thời của nước Cộng Hòa Pháp (the Provisional
Government of the French Republic).
Vào năm 1945, Tướng de Gaulle đã phái Đạo Quân Viễn Chinh
Pháp (the French Far East Expeditionary Corps) sang Đông Dương để thiết lập lại
chủ quyền của nước Pháp, bổ nhiệm Đô Đốc d’ Argenlieu làm Cao Ủy Đông Dương thuộc
Pháp (High Commissioner of French Indochina) và chỉ định Tướng Leclerc làm Tổng
Tư Lệnh của các lực lượng viễn chinh và tại Đông Dương.
Dưới sự lãnh đạo của Tướng de Gaulle, quân kháng chiến Pháp
cùng với các đạo quân thuộc địa, đã giải phóng gần như 1/3 diện tích của nước
Pháp. Đạo quân này, được gọi là Lộ Quân Pháp Thứ Nhất (the French First Army)
cũng chiếm được một diện tích lớn của lãnh thổ Đức khi các lực lượng Đồng Minh
tràn vào nước Đức. Sự kiện này đã khiến cho nước Pháp trở nên một thành phần
tích cực khi các đại diện Đức Quốc Xã ký nhận đầu hàng.
Ngày 20/11/1946, Tướng de Gaulle từ chức vì các xung khắc giữa
các đảng phái chính trị và ông cũng không đồng ý về bản dự thảo Hiến Pháp của nền
Cộng Hòa Thứ Tư, bởi vì ông tin tưởng rằng bản dự thảo này đặt quá nhiều quyền
lực vào trong tầm tay của một quốc hội với cách thay đổi tỉ lệ đảng phái. Các
nhân vật thay thế Tướng de Gaulle là các ông Felix Gouin, Georges Bidault và
Léon Blum.
Thời kỳ Cộng Hòa
Thứ Tư (1946-1958)
trong cuộc trưng cầu dân ý tổ chức vào tháng 10/1946. Đây là
thứ mà Tướng de Gaulle không ưa nhiều hơn so với bản dự thảo thứ nhất.
Vào tháng 4 năm 1947, Tướng de Gaulle lại muốn thay đổi hoàn
cảnh chính trị của nước Pháp một lần nữa bằng cách tạo ra tổ chức gọi là “Tập Hợp
Dân Chúng Pháp” (FPF = Rassemblement du Peuple Francais = Rally of the French
People), nhưng sau phần thành công ban đầu, phong trào này đã mất dần sức mạnh.
Vào tháng 5/1953, Tướng de Gaulle rút lui khỏi các hoạt động chính trị mặc dù
phong trào kể trên còn kéo dài tới tháng 9/1955.
Tướng de Gaulle về hưu tại Colombey-les-deux-Eglises và viết
hồi ký có tên là “Ký Ức Chiến Tranh” (Mémoires de Guerre). Tuy nhiên trong giai
đoạn rút lui này, ông vẫn liên lạc với các cộng tác viên chính trị cũ kể cả các
người cảm tình đang liên hệ vào các khai triển chính trị tại xứ Algeria.
Vào giai đoạn này, nền Cộng Hòa Thứ Tư đã bị tai tiếng vì
tình hình chính trị không ổn định, vì sự thất bại của nước Pháp tại Đông Dương,
vì không thể giải quyết được vấn đề Algegia… Năm 1954, Thủ Tướng Mendès France
đã chấm dứt cuộc chiến Đông Dương bằng Hiệp Định Geneva rồi tới năm 1956, nước
Pháp phải trao trả độc lập cho 2 xứ Tunisia và Morocco.
Ngày 13/5/1958, một số người định cư Pháp đã chiếm các tòa
nhà của chính phủ tại thành phố Algiers, phản đối chính quyền Pháp bởi vì họ
cho rằng chính quyền trung ương này quá yếu kém khi đa số các người gốc Ả Rập
đòi hỏi nền độc lập dành cho xứ Algeria. Vào lúc này, “Ủy Ban An Ninh Dân Sự và
Quân Sự” (Committee of Civil and Army Public Security) được các người gốc Pháp
thành lập, chủ tịch là Tướng Jacques Massu, một người theo phe de Gaulle, đồng
thời Tướng Raoul Salan, Tổng Tư Lệnh tại Algeria, đã công bố trên đài phát
thanh rằng Quân Đội đã “tạm thời lãnh trách nhiệm về vận mệnh của xứ Algeria
thuộc Pháp”. Sau đó, do áp lực của Tướng Massu, Tướng Salan đã hô lớn vào ngày
15/5: “de Gaulle muôn năm” (Vive de Gaulle) từ trên bao lơn của tòa nhà chính
quyền.
Tại cuộc họp báo vào ngày 19/5, Tướng de Gaulle đã xác nhận
rằng ông sẽ hành động theo quyền lợi của đất nước. Một nhà báo đã thay cho một
số người e ngại rằng ông sẽ vi phạm các tự do dân sự (civil liberties), nên đã
đặt câu hỏi với Tướng de Gaulle thì được ông trả lời: “Tôi đã từng vi phạm các
tự do dân sự bao giờ chưa? Hoàn toàn trái lại, tôi đã thiết lập lại các tự do
này khi chúng bị biến đi. Ai là người sẽ tin rằng vào tuổi 67, tôi sẽ khởi đầu
làm một nhà độc tài?”.
Do lòng tin tưởng của một người cộng hòa, Tướng de Gaulle
nói rằng ông chỉ chấp nhận quyền lực từ các thẩm quyền theo định chế và hợp
pháp.
Cuộc khủng hoảng tại Algiers càng gia tăng khi toán quân nhẩy
dù Pháp từ xứ Algeria, chiếm đóng hòn đảo Corsica. Các nhà lãnh tụ chính trị
thuộc nhiều phía đều đồng ý ủng hộ việc Tướng de Gaulle trở lại chính quyền,
ngoại trừ các ông Francois Mitterand, Pierre Mendès France, Alain Savary, đảng
Cộng Sản Pháp…
Ngày 19/5, Tổng Thống của nước Pháp thời bấy giờ là ông Réné
Coty đã mời “Nhân vật người Pháp danh giá nhất” (the most illustrious of
Frenchmen), ám chỉ Tướng de Gaulle, trở nên Thủ Tướng cuối cùng của Nền Cộng
Hòa Thứ Tư (the Fourth Republic).
Tướng de Gaulle vẫn cho rằng phải thay đổi hiến pháp của nền
Cộng Hòa này bởi vì đây là yếu điểm của nền chính trị của nước Pháp, vì vậy ông
đã ra điều kiện là ông phải có được một cách rộng rãi các quyền lực khẩn trương
(emergency powers) trong 6 tháng và một hiến pháp mới phải được đề nghị cho dân
chúng Pháp. Ngày 1 tháng 6 năm 1958, Tướng de Gaulle được Quốc Hội Pháp chấp
thuận làm Thủ Tướng với các quyền lực kể trên.
Vào ngày 28/9/1958, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức và
79.2 phần trăm dân chúng Pháp đã ủng hộ một hiến pháp mới và việc thành lập Nền
Cộng Hòa Thứ Năm (the Fifth Republic). Các thuộc địa cũ của nước Pháp được chọn
lựa giữa nền độc lập tức thời hay một hiến pháp mới. Tất cả các thuộc địa này đều
đã bỏ phiếu mong muốn một hiến pháp mới ngoại trừ xứ Guinea. Xứ sở này trở nên
thuộc địa đầu tiên của nước Pháp tại châu Phi đoạt được nền độc lập cùng với mọi
trợ giúp của Pháp bị cắt đứt, trong khi đó xứ Algeria bị chính thức coi là một
phần của nước Pháp, không phải là một xứ thuộc địa.
Thiết lập Nền Cộng
Hòa Thứ Năm 1958-1962
Trong cuộc bầu cử vào tháng 11/1958, Tướng de Gaulle và các
người ủng hộ của ông đã đoạt được đa số các phiếu bầu rồi qua tháng 12, ông được
bầu làm Tổng Thống với 78% phiếu cử tri đoàn. Tướng de Gaulle nhận chức vụ mới
vào tháng 1 năm 1959.
Khi lên làm Tổng Thống, Tướng de Gaulle đã cho thi hành các
biện pháp kinh tế cứng dắn để phục hồi xứ sở, kể cả việc đổi sang tiền quan mới
bằng 100 đồng quan cũ. Về phương diện quốc tế, ông đã cự tuyệt cả Hoa Kỳ lẫn
Liên Xô, đẩy mạnh công việc độc lập của nước Pháp bằng chủ trương có các võ khí
nguyên tử riêng, khuyến khích một Châu Âu Tự Do (a Free Europe) với ước vọng một
liên bang gồm các quốc gia của châu này. Tổng Thống de Gaulle cũng xây dựng
công việc cộng tác Pháp-Đức, coi đây là một bước đầu của Cộng Đồng Kinh Tế Châu
Âu (EEC = European Economic Community). Ông cũng chính thức thăm viếng nước Đức
vào năm 1963. Nước Pháp và nước Đức đã ký một hòa ước thân hữu, gọi tên là Hòa
Ước Élysée (the Elysée Treaty). Nước Pháp cũng giảm bớt khối mỹ kim dự trữ bằng
cách mua vàng của Hoa Kỳ và như vậy làm giảm bớt ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại các
nước ngoài.
Tổng Thống de Gaulle cũng mang một viễn ảnh về châu Âu. Ngày
23/11/1959, trong bài diễn văn đọc tại Strasbourg, ông đã nói: “Châu Âu, từ Đại
Tây Dương tới rặng núi Urals, tất cả là châu Âu, sẽ quyết định vận mệnh của thế
giới”. Viễn ảnh này khác với chủ trương Đại Tây Dương (the Atlanticism) gồm có Hoa
Kỳ, Anh và khối Nato. Lời tuyên bố của Tổng Thống de Gaulle này ám chỉ sự giảm
bớt căng thẳng với Liên Xô và việc loại nước Anh ra khỏi châu Âu của tương lai.
Năm 1963, Tổng Thống de Gaulle phủ quyết việc nước Anh xin
gia nhập Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu (EEC), nhiều người Anh cho rằng lời phủ nhận
này là một cách quên ơn khi ông de Gaulle đã không nhớ vai trò của nước Anh 19
năm về trước trong việc giải phóng nước Pháp.
Chính sách của Tổng Thống de Gaulle đối với xứ Algeria đã
làm cho các người gốc Pháp định cư tại xứ sở này bất mãn. Tổ chức Đạo Quân Bí Mật
(OSA = Organization Armée Secrète) đã tìm cách ám sát ông de Gaulle nhiều lần,
đặc biệt nhất là vụ ám hại vào ngày 22/8/1962 khi chiếc xe Citroen DS chở ông
bà de Gaulle bị tên Jean Mairie Bastien Thiry bắn bằng súng máy tại địa điểm
Petit-Clamant. Trước kia vào năm 1961, sau cuộc trưng cầu dân ý về nền tự quyết
của xứ Algeria, Tổng Thống de Gaulle đã dàn xếp một cuộc ngưng bắn tại nước này
vào tháng 3/1962 và sau đó vài tháng, 900,000 người Pháp định cư tại Algeria đã
rời bỏ xứ sở này.
Vào tháng 9 năm 1962, Tổng Thống de Gaulle đề nghị một tu
chính án theo đó, một vị tổng thống sẽ được dân chúng Pháp trực tiếp bầu lên, rồi
một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức với 3/5 dân chúng chấp thuận đề nghị kể trên
mặc dù đa số các đáng phái đã tụ họp thành một liên minh để phản đối tổng thống
chế.
số trong khi các đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo MRP
(Christian-Democrat) và đảng Trung Tâm của các Người Độc Lập và Nông Dân CNIP
(the National Centre of Independents and Peasants) đã chỉ trích Tổng Thống de
Gaulle vì chủ thuyết hoài nghi châu Âu (euroscepticism) và chế độ tổng thống.
Nền Chính Trị Hùng
Tráng 1962-1968
Sau khi giải quyết xong vụ xung đột tại xứ Algeria, Tổng Thống
de Gaulle còn phải thực hiện hai mục tiêu: cải tổ và phát triển nền kinh tế của
nước Pháp và theo đuổi một chính sách đối ngoại độc lập với thế đứng vững mạnh
trên phạm vi quốc tế. Chương trình này được gọi vắn tắt là nền chính trị hùng
tráng (politique de grandeur).
Vào thời kỳ của Thủ Tướng Georges Pompidou, nước Pháp có dân
số bùng nổ với mức độ gia tăng nhanh nhất kể từ thế kỷ 18. Chính quyền Pháp vì
vậy phải quản lý một nền kinh tế phát triển nhanh. Với chính sách điều khiển
(dirigism), một hình thức phối hợp của nền kinh tế tư bản với nền kinh tế do
chính quyền điều khiển (state-directed economy), chính phủ Pháp đã can thiệp mạnh
vào nền kinh tế, đặc biệt qua các chương trình 5 năm.
Các kế hoạch được khai triển dù cho không phải là thành công
về phương diện tài chánh: mở rộng Hải Cảng Marseille để trở thành cảng đứng đầu
trong vùng Địa Trung hải và đứng thứ ba tại châu Âu, bắt đầu đóng các máy bay
siêu âm Concorde tại thành phố Toulouse, khai triển loại máy bay Caravelle (một
tiền thân của máy bay Airbus), bành trướng nền kỹ nghệ xe hơi với trung tâm là
hãng xe Renault do chính quyền sở hữu, xây dựng các đường xa lộ nối thành phố
Paris với các tỉnh.
Với các dự án này, nền kinh tế của nước Pháp đã gia tăng với
mức độ cao nhất kể từ thế kỷ 19. Vào năm 1963, Tổng Thống de Gaulle phủ quyết
việc xin gia nhập của nước Anh vào Thị Trường Chung Châu Âu EEC. Năm 1964, lần
đầu tiên trong 200 năm, GDP (chỉ số phát triển quốc nội) của nước Pháp vượt hơn
của nước Anh và giai đoạn phát triển kinh tế từ 1945 tới 1974 được người dân
Pháp gọi là “30 Năm Rực Rỡ” (the Trente Glorieuses = Thirty Glorious Years).
Nhờ nền móng kinh tế vững mạnh, Tổng Thống de Gaulle đã theo
đuổi một chính sách ngoại giao độc lập. Vào năm 1960, nước Pháp trở nên quốc
gia thứ tư có kho võ khí nguyên tử. Các nhà khoa học Pháp đã cho nổ một quả bon
nguyên tử trên sa mạc Algeria rồi tới năm 1968, họ cũng thành công về một trái
bom khinh khí (a hydrogen bom) mà không cần sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Tổng Thống
de Gaulle đã tuyên bố là nước Pháp trở nên một lực lượng nguyên tử độc lập thứ
ba, sau Hoa Kỳ và Liên Xô, sự việc này đã làm mất thể diện của nước Anh. Tổng
Thống de Gaulle cũng muốn phát triển nguyên tử thành một lực lượng đánh trả
(force de frappe) trong khi đó tinh thần của quân đội Pháp bị xuống dốc vì xứ
Algeria đã giành được độc lập. Năm 1965, nước Pháp đã phóng vệ tinh nhân tạo thứ
nhất lên không gian, đây là quốc gia thứ ba trên thế giới đã thành công về hệ
thống phóng vệ tinh, chỉ đứng sau Liên Xô và Hoa Kỳ.
Tổng Thống de Gaulle tin rằng nước Pháp độc lập và hùng mạnh
sẽ là một lực lượng cân bằng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Vào tháng 1 năm 1964, Tướng
de Gaulle chính thức công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mặc cho Hoa Kỳ phản
đối. 8 năm sau, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon cũng thăm viếng Trung Cộng và bắt
đầu các liên lạc bình thường hóa.
Vào tháng 12 năm 1965, Tổng Thống de Gaulle ra tranh cử nhiệm
kỳ tổng thống thứ hai, dài 7 năm và đã thắng ông Francois Mitterand. Tháng 2
năm 1966, nước Pháp rút lui khỏi Bộ Chỉ Huy Quân Sự Nato, nhưng vẫn còn đứng
trong tổ chức này, rồi vào tháng 9 năm 1966, trong chuyến viếng thăm thành phố
Phnom Penh (Cam Bốt), Tổng Thống de Gaulle đã kêu gọi Hoa Kỳ phải rút quân khỏi
Việt Nam, sự việc này đã không được người Mỹ có cảm tình dù cho sau này, họ đã
thất bại tại Đông Dương.
Tại Cộng Đồng Châu Âu (the European Community) vào tháng 6
năm 1965, khi nước Pháp và 5 thành viên khác không đồng ý với nhau về cách bỏ
phiếu theo đa số và về cách trợ giúp chính sách nông nghiệp chung (the Common
Agricultural Policy)…, Tổng Thống de Gaulle đã rút về các đại diện của nước
Pháp tại Cộng Đồng này, tạo nên “cuộc khủng hoảng ghế trống” (the Empty Chair
Crisis). Vì vậy Cộng Đồng này đã không hoạt động được cho tới vụ Hòa Giải
Luxembourg (the Luxembourg compromise) được thực hiện vào tháng 1 năm 1966.
Vào tháng 6 năm 1967, sau khi phủ quyết không chấp nhận nước
Anh gia nhập Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu một lần nữa, Tổng Thống de Gaulle đã lên
án nước Do Thái chiếm đóng Bờ Phía Tây (the West Bank) và Dải Đất Gaza trong cuộc
chiến tranh 6 ngày (the Six-Day War). Kể từ nền độc lập của xứ Algeria, nước
Pháp đã theo đuổi chính sách ngoại giao thiên về phía Ả Rập.
Qua tháng 7 năm 1967 nước Canada tổ chức kỷ niệm 100 Năm Độc
Lập với Hội Chợ Quốc Tế Expo 67. Ngày 24/7 năm đó, trước một đám đông dân chúng
tụ họp dưới bao lơn của Tòa Thị Chính Montréal, Tổng Thống de Gaulle đã hô to
“Québec Muôn Năm” (Vive le Québec) rồi thêm vào câu “Québec Tự Do Muôn Năm”
(Vive le Québec libre!). Sự việc này đã khiến cho giới truyền thông Canada chỉ
trích các lời hô hào kể trên và Thủ Tướng Canada là ông Lester B. Pearson, cựu
chiến binh của Thế Chiến Thứ Nhất và là một nhân vật lãnh Giải Thưởng Nobel Hòa
Bình, đã phải nói rằng “người Canada không cần được giải phóng”.
Sang tháng 12 năm 1967, Tổng Thống de Gaulle lại bác bỏ,
không chấp nhận nước Anh vào Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu (the European Economic
Community) vì cho rằng lục địa châu Âu đang cần sự đoàn kết.
Nhận xét về Tướng
de Gaulle
Nhiều người cho rằng nền chính trị hùng tráng (the policy of
grandeur) của Tổng Thống de Gaulle quá tham vọng và nặng nề đối với vai trò của
nước Pháp, vì vậy không thể kéo dài được lâu, trong khi đó xã hội Pháp vẫn còn
đặt nặng về truyền thống và còn mang tính áp chế (repressive). Mặc dù báo chí
và cách bầu cử được tự do nhưng chính quyền vẫn còn giữ độc quyền về truyền
hình và truyền thanh. Nhiều yếu tố khác cũng khiến cho dân chúng chán nản đối với
cách quản trị đất nước, đặc biệt là giới trẻ.
Vào tháng 5 năm 1968, các cuộc biểu tình và đình công lớn tại
Pháp đã diễn ra. Tổng Thống de Gaulle đã phản đối các đòi hỏi của giới công
nhân và giới sinh viên được trực tiếp tham dự vào thương mại và chính quyền vì
ông cho rằng các công việc này chỉ gây nên tình trạng hỗn loạn.
Tới tháng 4 năm 1969, sau khi thất bại trong cuộc trưng cầu
dân ý về cách cải tổ Thượng Viện (the Senate), Tổng Thống de Gaulle đã từ chức
vì cho rằng ông đã không được đa số dân chúng ủng hộ.
Tướng de Gaulle lại rút về, cư ngụ tại
Colombey-les-deux-Eglises, và qua đời bất ngờ vào năm 1970, 2 tuần lễ trước khi
ông được 80 tuổi.
Qua di chúc để lại, Tướng de Gaulle muốn tang lễ được cử
hành tại Colombey mà không có các vị tổng thống, bộ trưởng nào tham dự, mà chỉ
có các “Bạn Bè trong Nhóm Giải Phóng” (Compagnons de la Libération), và trên mộ
chí, sẽ chỉ ghi đơn giản: “Charles de Gaulle, 1890-1970”. Ngày cử hành tang lễ,
quan tài của Tướng de Gaulle được chở trên một xe thiết giáp và trong khi hạ
huyệt, các chuông nhà thờ trên toàn nước Pháp, khởi đầu từ Nhà Thờ Notre Dame,
Paris, đã đổ liên hồi.
Không giống như các chính khách khác, Tướng de Gaulle qua đời
trong cảnh gần như nghèo khó. Khi về hưu, ông đã không nhận tiền hưu liễm trả
cho một vị cựu tổng thống và một vị cựu tướng lãnh, ông chỉ nhận tiền hưu của một
đại tá. Sau đó, gia đình ông đã phải bán đi tòa nhà Boisserie và chính quyền
Pháp đã mua lại nơi này để chuyển thành Viện Bảo Tàng Charles de Gaulle.
Tướng de Gaulle lập gia đình với bà Yvonne Vendroux vào ngày
7/4/1921, họ có 3 người con là Philippe (sinh năm 1921), Élizabeth (sinh năm
1924), cô này kết hôn với Tướng Alain de Boissieu và Anne (1928-1948). Cô Anne
mắc bệnh Down, qua đời ở tuổi 20.
Mặc dù là một nhân vật bị phe tả và một số người nước ngoài
chỉ trích, Tướng de Gaulle vẫn được rất nhiều người kính trọng tại nước Pháp và
giai đoạn làm Tổng Thống của ông đã mang lại sự ổn định chính trị cũng như sức
mạnh trên phạm vi quốc tế. Đối với những người kính mến ông, Tướng de Gaulle được
coi là một ông “vua đúng cách” (a just king) với các đặc tính của một nhà cai
trị ngay thẳng.
Đối với những người chống đối, ông bị gán cho là đã xử dụng
loại vương quyền xưa cũ, nhưng Nền Cộng Hòa Thứ Năm của Tổng Thống de Gaulle đã
chứng tỏ là khá ổn định so với Nền Cộng Hòa Thứ Tư.
Về mặt đối nội, Tướng de Gaulle đã phục hồi được nền thịnh
vượng kinh tế và trong các thập niên này, sự phát triển đã vượt trội, mức sống
của dân chúng Pháp cũng được cải tiến hơn nhiều.
Hiện nay tại nước Pháp, phi trường lớn nhất ở ngoại ô thành
phố Paris, tại Roissy, được đặt tên là Phi Trường Quốc Tế Charles de Gaulle
(Charles de Gaulle International Airport) để vinh danh vị Anh Hùng của nước
Pháp.
Nguồn: Vietsciences.free.fr
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét