Lê Dung
Bế tắc nợ công: từ 2017 chính phủ phải dừng bảo lãnh nợ cho các tập đoàn nhà nước
Rút
kinh nghiệm xương máu từ thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về “Việc phải
bảo lãnh vay nợ lớn cho các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước đã
đẩy nợ Chính phủ lên mức vượt trần”, ông Nguyễn Xuân Phúc vừa phát đi
một văn bản chỉ đạo: “Sang đến 2017, nhằm đảm bảo an toàn nợ công, Chính
phủ sẽ tạm dừng phê duyệt chủ trương cấp bảo lãnh cho các dự án mới”.
Đây là động thái “quyết liệt” đầu tiên về vấn nạn nợ công của thủ tướng mới. Trong bản tin nợ mà Bộ Tài Chính phát đi, chính phủ chỉ thừa nhận đang nợ hơn 86 tỷ USD, trong bối cảnh phải bảo lãnh nhiều khoản vay nợ lớn của các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước. Cụ thể, tổng số cam kết bảo lãnh chính phủ là gần 26 tỷ USD, trong đó bảo lãnh vay nước ngoài hơn 21.8 tỷ USD, chiếm xấp xỉ 84%.
Đây là động thái “quyết liệt” đầu tiên về vấn nạn nợ công của thủ tướng mới. Trong bản tin nợ mà Bộ Tài Chính phát đi, chính phủ chỉ thừa nhận đang nợ hơn 86 tỷ USD, trong bối cảnh phải bảo lãnh nhiều khoản vay nợ lớn của các tập đoàn kinh tế thuộc sở hữu nhà nước. Cụ thể, tổng số cam kết bảo lãnh chính phủ là gần 26 tỷ USD, trong đó bảo lãnh vay nước ngoài hơn 21.8 tỷ USD, chiếm xấp xỉ 84%.
Tính
đến hết 2015, tổng số nợ thực tế được chính phủ bảo lãnh là khoảng 21
tỷ USD (bao gồm cả nợ được bảo lãnh để tái cơ cấu Tổng công ty Công
nghiệp Tàu thủy Việt Nam - SBIC). Con số bảo lãnh này chiếm khoảng 17.6%
tổng dư nợ công và bằng 11.1% GDP.
Dưới
thời ông Nguyễn Tấn Dũng, cơ chế bảo lãnh cho các tập đoàn và tổng
công ty nhà nước vay nước ngoài bị coi là vô tội vạ. Gần như tập đoàn
nào chịu “chạy” cũng đều có thể vay vốn thoải mái, mà không cần quan tâm
đến việc phải trả nợ.
Chỉ
tính tiêng Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), số vay nợ đã lên tới 9.7
tỷ USD. Tổng công ty Truyền tải điện Việt Nam (EVN/NPT) là 445 triệu
USD.
Năm
2015, có 4 dự án nguồn điện được cấp bảo lãnh Chính phủ với tổng giá
trị gần 2.1 tỷ USD, đã góp phần hoàn thiện đầu tư cho các cụm nhà máy
điện Vĩnh Tân và Duyên Hải.
Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) cũng được Chính phủ bảo lãnh vay
2.4 tỷ USD, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (647 triệu
USD), các công ty khác (2.7 tỷ USD)…
Tuy
nhiên, những dẫn chứng trên mới chỉ là loại hình chính phủ bảo lãnh cho
doanh nghiệp vay nước ngoài, mà chưa nói đến thực tế nhiều doanh nghiệp
vay thẳng nước ngoài. Theo luật về nợ công ở Việt Nam, số vay trực tiếp
nước ngoài của doanh nghiệp không được tính vào nợ công, do đó đã khiến
tỷ lệ nợ công quốc gia/GDP luôn được báo cáo là “chưa đụng ngưỡng giới
hạn 65%” và được coi là một thành tích của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,
mà càng làm cho các tập đoàn và chính phủ tha hồ vay mượn thêm.
Nhưng
theo tiêu chí của Liên Hiệp Quốc, nợ nước ngoài của các doanh nghiệp
phải được tính vào nợ công quốc gia. Nếu tính đủ loại nợ này, nợ công
quốc gia của Việt Nam phải lên đến ít nhất 98% GDP vào thời điểm năm
2011, còn đến nay nhiều khả năng đã vượt hơn 100% GDP. Thậm chí có
chuyên gia đánh giá nợ công Việt Nam đang vào khoảng 150% GDP, dù rằng
vẫn còn thấp hơn hẳn tỷ lệ 250% GDP ở Trung cộng.
Động
thái “siết” bảo lãnh nợ công của chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng cho
thấy chính phủ này đang bế tắc về việc trả nợ. Trong năm 2015, Việt Nam
phải trả nợ nước ngoài 20 tỷ USD, còn trong năm 2016 phải trả ít nhất
12 tỷ USD, chưa kể cơ chế trả nợ riêng của các doanh nghiệp Việt Nam.
Nguồn: Việt Nam Thời Báo
Nguồn: Việt Nam Thời Báo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét