Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016

Nguồn gốc của thịnh vượng – Kỳ 1: K. Marx vs Adam Smith

Hoàng Thảo Anh dịch

Nguồn: Deidre N. McCloskey, “How the West (and the Rest) Got Rich“, Wall Street Journal, 20/05/2016

Nguyên nhân chính dẫn tới Kỷ Đại Thịnh Vượng (The Great Enrichment) diễn ra từ cách đây 2 thế kỷ cho tới nay là gì? Vì sao, dù Châu Âu luôn thua thiệt so với các châu lục khác nếu so sánh về tài nguyên, nhân lực từ hàng thế kỷ trước lại là nơi bắt đầu của Kỷ Đại Thịnh Vượng?

Thực tế tươi đẹp?

Nguyên nhân chính dẫn tới Kỷ Đại Thịnh Vượng (The Great Enrichment) diễn ra từ cách đây 2 thế kỷ cho tới nay là gì? Vì sao, dù Châu Âu luôn thua thiệt so với các châu lục khác nếu so sánh về tài nguyên, nhân lực từ hàng thế kỷ trước lại là nơi bắt đầu của Kỷ Đại Thịnh Vượng?

Thực tế tươi đẹp?

Tại sao con người ngày nay lại giàu có đến vậy? Một người Mỹ trung bình kiếm được 130$ mỗi ngày, nhờ thế Mỹ đã ở trên đỉnh của bảng xếp hạng thu nhập cá nhân. Trung Quốc dừng ở mốc 20$/ngày (trên thực tế, khả năng mua điều chỉnh thu nhập tương đối này đi chút ít) và Ấn Độ là 10$/ngày; ngay cả khi sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội trong những thập kỉ gần đây đã làm giảm thu nhập bình quân của thế giới đi 1$/ngày. Chỉ sau vài kỷ nguyên cải cách kinh tế nữa, các quốc gia còn lại này cũng sẽ trở nên thịnh vượng, và phép thử này đã được minh chứng trong lĩnh vực thương mại.

Trên thực tế, “chúng ta” gần như có thể khẳng định rằng con người ngày càng trở nên giàu có, dựa trên tham chiếu thịnh vượng của bao gồm hầu hết các quốc gia hiện nay (chỉ trừ một số trường hợp buồn).

Hai thế kỉ trước, mức thu nhập bình quân đầu người trên thế giới (theo tỷ giá hiện tại) chỉ khoảng 3$ một ngày. Mức này đã gần như không đổi kể từ thời đồ đá.

Ngày nay con số này là 33$/ngày- cũng là mức hiện tại ở Brazil và là con số người dân Mỹ đã đạt được vào năm 1940. Hơn 200 năm qua, thực tế bình quân đầu người đã tăng lên gấp 10 lần, kể cả ở những quốc gia tệ hại như Chad và Bắc Triều Tiên. Đây là một điều rất tuyệt vời. Hơn thế, ở những nước phát triển thương mại và kinh tế toàn diện như Nhật Bản, Thụy Điển và Hoa Kỳ, mức tăng trưởng đã đạt đến gấp 30 lần.

Và những con số trên không tính đến những cải thiện triệt để từ những năm 1800 trong lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ thông thường. Những mối quan tâm ngày nay về sự trì trệ của tiền lương thực tế ở Mỹ và một số nền kinh tế phát triển đang bị thổi phồng lên nếu đặt vào để so sánh bối cảnh lịch sử. Như nhà kinh tế học Donald Boudreau và Mark Perry đã lập luận, những số liệu chính thức không tính đến lợi ích thực tế của những tiến bộ vật chất đáng kinh ngạc của chúng ta.

Hãy nhìn đến những thiết bị tân tiến hiện đang dùng trong truyền thông và giải trí  được cung cấp cho người dân với mức giá khiêm tốn. Bạn có biết liệu có ai đang có những biểu hiện lâm sàng của chứng trầm cảm? Ngày nay, cô ấy/anh ấy có thể tìm kiếm sự hỗ trợ với nhiều toa thuốc hiệu quả mà đáng tiếc tỷ phú Howard Hughes đã không thể có trong cơn tuyệt vọng của mình. Cần thay thế khớp hông? Năm 1980, cuộc phẫu thuật thử nghiệm đã cơ bản được diễn ra.

Không gì đã xảy ra trước đó 2 thế kỉ ngoạn mục bằng cuộc Kỷ Đại Thịnh Vượng. Thu nhập tăng gấp đôi, các điều kiện sống của con người thường xuyên được nâng cấp 100% vượt xa hào quang Hy Lạp, sự hùng vĩ của đế chế La Mã, Trung Hoa thịnh vượng và đế quốc Mughal Ấn Độ. Nhưng người ta đã sớm trở lại với lối sống khốn cùng với  mức thu nhập 3$ như ở Afghanistan hiện nay, hoặc tệ hại hơn thế. Một cuộc cách mạng cải thiện 10,000% mọi sản phẩm từ đồ hộp cho đến thuốc chống trầm cảm đã không hề được nghĩ đến, cho đến khi điều đó xảy ra.

Câu trả lời từ hai nhà tư tưởng lớn

Điều gì khiến nó xảy ra? Những lời giải thích thường đi theo ý thức hệ. Về phía cánh tả tính từ thời kỳ của Marx, câu trả lời sẽ là sự bóc lột. Chủ nghĩa tư bản sau năm 1800 chiếm hữu giá trị thặng dư từ người lao động và đầu tư nó trong bóng tối như những nhà máy của quỷ Satan (Cách hiểu này không thỏa đáng lắm bởi các hình thái xã hội trước đó đều phát triển dựa trên bóc lột – điều gì tạo nên sự khác biệt ở giai đoạn tư bản, trong khi nếu chỉ dựa trên bóc lột thì lại không thể giải thích vì sao cả xã hội đều giàu lên – ND). Về phía cánh hữu, theo ngài Adam Smith, mấu chốt là tiết kiệm chi phí và tích lũy tư bản. Những người miền Tây hoang dã có thể trở nên giàu có như những người Hà Lan với “đẳng cấp cao nhất của sự quý phái” như Smith đã đạt được vào năm 1776, nếu họ chỉ đơn giản tiết kiệm đủ để tích lũy tư bản.

Gần đây, tuyên bố hiểu một cách mở rộng khẳng định của Smith được đưa ra bởi nhà kinh tế học đoạn giải Nobel Douglass North (và đã được Ngân hàng Thế giới chính thức công nhận) rằng: liều thuốc tiên thực sự chính là các thể chế. Theo quan điểm này, nếu bạn cung cấp cho các luật sư của một quốc gia những chiếc áo choàng hoàn mỹ và bộ tóc giả màu trắng, bạn sẽ có Thông luật Anh (ý nói việc thể chế hóa các chế định quyền lực, pháp luật được thực hiện một cách hoàn hảo – ND). Luật pháp sẽ được tuân theo, tham nhũng sẽ biến mất, và nhà nước sẽ được vận hành bởi tích lũy tư bản cho đến khi đạt tới “đẳng cấp cao nhất của sự quý phái”.

Nhưng không có sự giải thích nào là đúng hoàn toàn.

Cần nhưng chưa đủ

Những gì làm nên sự giàu có của thế giới hiện đại chắc chắn không phải là nguồn đánh cắp từ người lao động; hay vốn tích lũy được nhờ lòng nhân đạo, cũng không nhất thiết chỉ phải là những thể chế đã được tôi luyện thường xuyên tạo ra. Tất nhiên cả Tư bản và Nền pháp trị đều rất cần thiết, nhưng nhiều vấn đề khác cũng cần được quan tâm không kém.

Tư bản trở nên có hiệu quả nhờ những sáng kiến cải tiến được đưa ra bởi một anh thợ mộc hay một cậu trai đánh điện tín hoặc một thiếu niên điện toán Seattle. Như Matt Ridley đã nhắc đến trong cuốn sách của mình “ Người lạc quan thuần lý” (2010), những gì đã xảy ra hơn 200 năm qua là “những sự kết hợp của các ý tưởng”. Ý tưởng về tuyến xe lửa là sự kết hợp của động cơ hơi nước áp suất cao với những chiếc xe chạy trên đường ray tại các mỏ than. Ý tưởng về máy cắt cỏ là sự kết hợp của một động cơ chạy xăng cỡ nhỏ với một máy gặt cỡ nhỏ. Và còn nhiều nữa, qua mọi thứ có thể tưởng tượng được của các loại phát minh. Sự kết hợp giữa những ý tưởng của những người dân thường đã mang lại sự bùng nổ trong những cải tiến.

Hãy nhìn xung quanh căn phòng của bạn và chú ý đến hàng trăm sản phẩm đã từng là những sáng kiến có từ trước năm 1800: điện nước, hệ thống sưởi và làm mát trung tâm, thảm dệt máy, những cửa sổ rộng hơn bất kỳ sản phẩm nào trước đó nhờ công nghệ sản xuất kính nổi. Hoặc hãy xét đến tích lũy tư bản của bạn khi ở trường đại học, hay sức khỏe của thú cưng từ những lần tới bác sĩ thú y.

Chỉ cần những sáng kiến là đủ. Một khi chúng ta đã có ý tưởng cho đường sắt hay máy điều hòa hay các nghiên cứu hiện đại ở trường đại học, việc tìm kiếm nguồn vốn cho những việc này tương đối đơn giản vì người ta đã nhìn thấy được lợi nhuận từ các ý tưởng đó

Nếu chỉ cần tích lũy tư bản hay nền pháp trị thì Kỷ Đại Thịnh Vượng đáng lẽ đã xảy ra ở vùng Lưỡng Hà vào năm 2000 TCN, ở La Mã vào năm 100 SCN hay ở Baghdad vào năm 800. Cho đến năm 1500, và nhiều khi cho tới năm 1700, Trung Quốc vẫn là đất nước có công nghệ phát triển nhất bấy giờ. Người Trung Quốc đã phát minh ra hệ thống đập ở các kênh rạch để điều tiết dòng nước trước phương Tây cả trăm năm, và ngay cả các con kênh của họ cũng dài hơn hơn bất kỳ con kênh nào ở châu Âu. Khu vực mậu dịch tự do của Trung Quốc và nền pháp trị của họ từng bao la rộng lớn hơn Châu Âu rất nhiều, nơi bị chia rẽ bởi phân quyền cát cứ. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng Công nghiệp đã không xảy ra ở Trung Quốc mà lại xảy ra ở Bắc Âu và hệ quả là cuộc [Đại phát tài] đã diễn ra đầu tiên ở đây.

Tại sao các sáng kiến lại đột ngột kết hợp với nhau tại thời điểm đó và sau đó? Tại sao tất cả mọi thứ đều bắt đầu ở Hà Lan vào những năm 1600 và sau đó là ở Anh vào khoảng năm 1700 rồi đến các thuộc địa Bắc Mỹ tới láng giềng khốn cùng của Anh Quốc là Scothland, và lần lượt đến Bỉ, miền bắc nước Pháp và vùng Rhineland?

Chỉ có thể là tự do

Câu trả lời chỉ có một, đó là hai chữ “tự do”. Con người được giải phóng và trở nên khôn ngoan. Nô lệ, nông nô, phụ nữ lệ thuộc, những con người bị đóng băng trong một hệ thống phân tầng đẳng cấp của các lãnh chúa hay các quan chức thì không thể như vậy. Sau một số tai nạn của nền chính trị châu Âu, ngày càng nhiều người dân châu Âu đã được giải phóng khỏi những giá trị đạo đức lỗi thời cố hữu. Từ cuộc cải cách tôn giáo của Luther, cuộc nổi dậy của người Hà Lan chống lại người Tây Ban Nha sau 1568 đến tình hình rối ren ở Anh trong cuộc nội chiến những năm 1640, cho tới những cuộc cách mạng diễn ra ở Mỹ, Pháp, người dân châu Âu đã bắt đầu tin tưởng rằng dân chúng cần được giải phóng để có khoái hoạt. Chúng ta có thể gọi nó là: cuộc sống, tự do và sự mưu cầu hạnh phúc.

Một khái niệm khác bao quát hơn cũng được sử dụng, đó là [sự bình đẳng], đây là thứ không thể đạt được trong một sớm một chiều, và chưa bao giờ hoàn hảo. Chúng ta không bàn đến bình đẳng về kết quả đậm chất “Pháp” của Jean-Jacques Rousseau và Thomas Piketty. Bình đẳng ở đây đậm chất “Scottish” của David Hume và Adam Smith: bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng về phẩm giá xã hội. Nó khiến cho con người táo bạo truy cầu những lợi ích tốt hơn cho bản thân. Như Smith đã viết , bình đẳng là thứ “cho phép mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân theo cách của mình, trên cơ sở bình đẳng, tự do và công lý”.

Bên cạnh đó, một khái niệm có vẻ đáng kinh ngạc để giải thích cho sự thịnh vượng ngày nay là “chủ nghĩa tự do”, vốn có nghĩa gốc là “những gì một người tự do xứng đáng được hưởng”. Chủ nghĩa tự do là một ý tưởng mới.

Một người Anh tên Leveller Richard Rumbold khi đối diện với giá treo cổ đã khẳng định:

    “Tôi chắc chắn rằng không người nào được sinh ra với dấu hiệu của Chúa cho phép người đó đứng trên người khác; không ai đi đến thế giới này với chiếc yên ngựa trên lưng, và cũng không ai có thể cưỡi lên đó và bắt anh ta chở mình đi”

Rất ít người trong đám đông tụ tập nhạo báng Rumbold đồng ý với những câu nói đó. Một thế kỉ sau, những nhà tư tưởng cấp tiến như Tome Paine và Mary Wollstonecraft đã đến với ý tưởng này. Hai thế kỉ sau, hầu như người ta đã thực hiện nó. Và Kỷ Đại Thịnh Vượng đã đến với chúng ta như thế.

Nền tự do chật vật

Không phải ai cũng vui vẻ với sự phát triển này và những ý tưởng ngay sau đó. Vào thế kỉ 18, nhà tư tưởng theo chủ nghĩa tự do như Voltaire và Benjamin Franklin đã can đảm ủng hộ tự do thương mại. Những năm 1830 và 1840, một tầng lớp trí thức phóng khoáng hơn gồm hầu hết những hậu duệ của các nhà tư sản, bắt đầu giễu cợt một cách trịch thượng vào những quyền tự do đã làm giàu cho ông cha họ và giúp họ có thể hưởng thụ những thú vui giải trí. Thế hệ này đã ủng hộ mạnh mẽ việc sử dụng nhà nước độc tài bạo lực để sớm đạt được những điều không tưởng.

Giới trí thức thay vì tập trung vào các quyền chính trị, lại hoài niệm về một thời Trung cổ trong tưởng tượng, tự do trong nền thương mại thô sơ, một thời vàng son phi thị trường nơi tiền thuê và hệ thống phân tầng đẳng cấp ngự trị. Một tầm nhìn bảo thủ và lãng mạn của thời xưa cũ lại phù hợp với giới chóp bu cầm quyền cánh hữu. Cuối thế kỉ 19, dưới sự ảnh hưởng của một diễn giải khoa học, các quyền con người gắn liền với học thuyết xã hội Darwin và thuyết ưu sinh[1] bị hạ thấp giá trị của tự do và nhân phẩm của người dân nhằm nâng cao sứ mệnh của quốc gia lên trên cá nhân, từ đó đề xuất chủ nghĩa thực dân, cấm vận bắt buộc và quyền năng thanh tẩy của chiến tranh.

Trong khi đó, một bộ phận trí thức cánh tả đã phát triển một ý tưởng phi tự do rằng sáng kiến không làm nên gì cả. Phe này khẳng định điều quan trọng đối với sự tiến bộ là những cơn thủy triều không ngừng của lịch sử, với sự giúp sức của các cuộc biểu tình, cuộc đình công hay cuộc cách mạng nhằm vào giai cấp tư sản ác ôn xảy ra một cách tự nhiên. Sau đó, trong chủ nghĩa xã hội châu Âu và chủ nghĩa cấp tiến Mỹ, cánh Tả đề xuất bãi bỏ quyền tự do tư sản đối với thịt, đường và thép bằng cách thu thập chúng theo quy định, thông qua các nghiệp đoàn, hoặc kế hoạch hóa tập trung hay tập thể hóa tất cả các công ty độc quyền thành một tổ chức độc quyền tối cao là Nhà nước.

Sai lầm của chủ nghĩa xã hội

Trong khi những tư tưởng này khuấy động sâu sắc giới trí thức châu Âu, tầng lớp tư sản thương mại, bị khinh thường bởi cả phe cánh tả và cánh hữu lẫn phe trung dung, đã kiến tạo nên Kỷ Đại Thịnh Vượng và thế giới hiện đại. Kỷ Đại Thịnh Vượng đã cải thiện một cách quy mô cuộc sống của chúng ta. Khi làm được điều này, nó đã chứng minh cả học thuyết xã hội Darwin và chủ nghĩa kinh tế Marxism đã sai lầm. Các chủng tộc, dân tộc, tầng lớp bị cho là thấp kém đã được chứng minh họ vốn không như thế. Giai cấp vô sản bị bóc lột không những không bị đưa vào lao khổ mà còn được làm giàu. Hóa ra người ta không cần phải chịu sự chỉ đạo từ cấp trên, và khi được khen ngợi và độc lập một mình, họ trở nên cực kì sáng tạo.

Kỷ Đại Thịnh Vượng là sự kiện kinh thiên động địa nhất kể từ khi con người bắt đầu biết trồng trọt và chăn nuôi. Nó đã, đang và sẽ tiếp tục có ý nghĩa lịch sử hơn cả những thăng trầm của các đế quốc hay của các cuộc đấu tranh giai cấp từ trước đến nay.

    Chủ nghĩa Đế quốc không làm cho nước Anh trở nên giàu có. Sự thành công của nước Mỹ không phụ thuộc vào chế độ nô lệ. Cường quyền không dẫn tới sung túc, và bóc lột không phải là động cơ của sự giàu có. Sự tiến bộ hướng tới bình đẳng kết quả kiểu Pháp đã thành công không phải nhờ vào thuế má và sự tái phân phối mà là nhờ vào những quan điểm khác nhau về sự bình đẳng của những người Scotland. Động cơ thực sự là việc mở rộng ý thức hệ của chủ nghĩa tự do cổ điển.

Kỷ Đại Thịnh Vượng đã tái khởi động lịch sử. Nó sẽ kết thúc đói nghèo. Và thực sự điều đó đã xảy ra ở một số quốc gia. Trung Quốc và Ấn Độ đã thông qua một số điều kiện tự do kinh tế, và đang bùng nổ tăng trưởng. Brazil, Nga và Nam Mỹ, những quốc gia ưu ái kinh tế kế hoạch hóa, bảo hộ mậu dịch và những sân chơi bình đẳng, hiện đang chững lại.

Các nhà kinh tế học và sử học cánh tả, hữu và trung dung không thể giải thích về cuộc cách mạng thịnh vượng. Có thể thứ khoa học của họ cần được cải tiến, hướng tới “humanomics” một cách nghiêm túc. Humanomics không từ bỏ các giao dịch chứng khoán, nhập khẩu, hay bài toán về sự co dãn của nhu cầu, hay các thống kê phân tích hồi quy. Mà nó bổ sung thêm những nghiên cứu về từ ngữ cũng như ý nghĩa của chúng, đóng góp tuyệt vời cho sự thịnh vượng của chúng ta.

Phải thật cẩn trọng khi đưa ra những chính sách công cho cuộc cách mạng này. Như Adam Smith đã nói “sẽ là đỉnh điểm của sự ngạo mạn… khi những nhà quân chủ và cận thần của mình giả vờ bảo vệ cho kinh tế tư nhân.” Chúng ta chắc chắn có thể tự đánh thuế để giúp đỡ người nghèo. Chính Smith đã chìa bàn tay tự do cho những người lao khổ. Chủ nghĩa tự do của người Cơ đốc giáo, hay Do Thái giáo, Hồi giáo hoặc Ấn độ giáo đã nói lên điều đó.

Nhưng cần lưu ý rằng, 95% sự phát tài của những người nghèo kể từ năm 1800 không phải nhờ vào sự ban phát từ thiện mà thường là sản phẩm của một nền kinh tế hiệu quả.

Dân biểu đến từ đảng Cộng Hòa ở Kentucky Thomas Massie đã đúng khi phát biểu với tạp chí Reason năm ngoái: “Khi người ta hỏi [Thế hệ con cháu sẽ khá hơn chúng ta chứ?], tôi trả lời [Sẽ, nhưng điều đó không dựa vào các chính trị gia, mà là các kỹ sư]”

Tôi còn cho rằng, sự thịnh vượng cũng đến từ các doanh nhân mua rẻ bán hời, người thợ làm tóc nhận ra cơ hội kinh doanh cửa hàng mới, những người buôn dầu thô vui vẻ đến từ North Dakota và tất cả những ai đồng thuận với những thỏa thuận tư sản cơ bản: Hãy để tôi nắm bắt cơ hội phát triển nền kinh tế, điều đã được chứng minh trong thương mại, và tôi sẽ làm cho tất cả chúng ta trở nên giàu có.

Tiến sĩ McCloskey là một giáo sư thỉnh giảng về kinh tế, lịch sử, Anh ngữ và giao tiếp tại Đại học Illinois ở Chicago. Bài tiểu luận này được chuyển thể từ cuốn sách mới của cô “Tư bản bình đẳng: Các sáng kiến chứ không phải tư bản hay các thể chế đã làm thế giới trở nên thịnh vượng như thế nào”, xuất bản bởi Tạp San Đại học Chicago.

[1] Thuyết ưu sinh là “khoa học ứng dụng hoặc là phong trào sinh học-xã hội ủng hộ việc sử dụng các phương thức nhằm cải thiện cấu tạo gen của dân số”, thường là dân số loài người. Thuyết ưu sinh rất nổi tiếng vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Vào giữa thế kỷ 20 thuyết ưu sinh không còn phổ biến do dính dáng tới Đức Quốc xã. Cả công chúng và vài thành tố của cộng đồng khoa học đều gắn thuyết ưu sinh với những hành động lạm dụng của Phát xít như, “rửa sạch chủng tộc”, thí nghiệm trên người và tiêu diệt các nhóm dân tộc “không mong muốn”. Tuy nhiên, sự phát triển của các công nghệ gen và công nghệ nhân bản vào cuối thế kỷ 20 đã đặt ra nhiều câu hỏi về ý nghĩa của thuyết ưu sinh và vấn đề đạo đức của nó trong thời hiện đại, lại làm trỗi dậy những mối quan tâm về thuyết ưu sinh – theo Wikipedia.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét