Lê Hồng Hiệp
Trong Bài giảng Singapore thứ 38 do Viện Nghiên cứu Đông Nam
Á (ISEAS – Yusof Ishak Institute) chủ trì ngày 30/08/2016, Chủ tịch nước Việt
Nam Trần Đại Quang đã nhấn mạnh tầm quan trọng của ASEAN trong việc định hình
các phản ứng của khu vực đối với các mối đe dọa an ninh truyền thống cũng như
phi truyền thống, tuyên bố rằng việc duy trì một “cấu trúc khu vực đa cực, đa tầng
nấc, trong đó ASEAN đóng một vai trò trung tâm” là điều hết sức quan trọng.
Đáng chú ý là trong khi ca ngợi vai trò của ASEAN trong việc
quản lý các vấn đề an ninh khu vực, bao gồm tranh chấp ở Biển Đông, ông Quang
cũng ngầm thể hiện sự thất vọng của Việt Nam đối với sự bất lực của ASEAN trong
việc giải quyết hiệu quả các tranh chấp, một vấn đề chủ yếu do nguyên tắc đồng
thuận của khối gây ra.
Trả lời một câu hỏi từ cử tọa về quan điểm của Việt Nam về
vai trò của ASEAN trong các vấn đề khu vực, ông Quang dù công nhận “đồng thuận”
là một nguyên tắc cơ bản trong cách vận hành của ASEAN, nhưng cũng cho rằng do
“các vấn đề mới phát sinh”, ASEAN nên xem xét thiết lập các cơ chế bổ sung để
cho phép một mức độ linh hoạt nhất định nhằm quản lý tốt hơn những thách thức
an ninh này.
Trong số các “vấn đề mới phát sinh” mà ông Quang đề cấp tới
có những khó khăn gần đây mà nguyên tắc đồng thuận gây ra cho việc định hình một quan điểm chung của ASEAN về các vấn
đề an ninh khu vực, đặc biệt là về vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Kể từ khi gia nhập ASEAN vào năm 1995, Việt Nam đã rất chú
trọng sử dụng các cơ chế ASEAN để quản lý tranh chấp Biển Đông với các quốc gia
yêu sách khác, đặc biệt là Trung Quốc. Tuy nhiên, nguyên tắc đồng thuận của
ASEAN cũng đặt ra một tình thế khó xử đối với Việt Nam trong việc theo đuổi chiến
lược này. Trong khi nguyên tắc này cho phép Việt Nam về cơ bản có thể phủ quyết
các chính sách và hành động của ASEAN nào có thể gây phương hại đến lợi ích quốc
gia của mình, nó cũng làm hạn chế những nỗ lực của Việt Nam nhằm tạo ra một lập
trường chung giữa các quốc gia thành viên ASEAN về vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Vì vậy, đề nghị của ông Quang rằng ASEAN có thể tính tới các
cơ chế bổ sung nhằm vượt qua các khó khăn mà nguyên tắc đồng thuận của ASEAN
gây ra phản ánh thực tế rằng vấn đề tranh chấp Biển Đông đang chiếm vị trí
trung tâm trong chương trình nghị sự đối ngoại của Việt Nam, vượt lên trên những
lợi ích khác mà nguyên tắc này có thể mang lại cho Hà Nội trong các vấn đề
khác.
Đề nghị của CTN Trần Đại Quang có thể đáng được ASEAN xem
xét nếu ASEAN muốn tăng cường hiệu quả của mình trong việc giải quyết các vấn đề
bức xúc có tác động lớn đối với an ninh khu vực. Nó cũng trùng hợp với đề nghị
của một số học giả khu vực cho rằng ASEAN cần đánh giá lại cơ chế ra quyết định
dựa trên đồng thuận của mình bằng cách loại bỏ quyền phủ quyết của các nước
thành viên, đồng thời áp dụng nguyên tắc “ASEAN trừ nước X” thay vì sự đồng thuận
đầy đủ trong việc giải quyết các vấn đề nhất định.
Để đề xuất này được thông qua bởi ASEAN, trước hết các quốc
gia thành viên cần phải đạt được một sự đồng thuận về sự cần thiết phải thay đổi
cơ chế làm việc nền tảng lâu nay của Hiệp hội. Nếu xét tình hình gần đây của
ASEAN, triển vọng để các nước thành viên có thể để đạt được một sự “đồng thuận
chống lại đồng thuận” như vậy, hoặc ít nhất là đồng ý về các cơ chế bổ sung cho
nguyên tắc đồng thuận như CTN Trần Đại Quang đề nghị, có thể không cao.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam và một số đối tác ASEAN khác có
chung lợi ích và quan điểm có thể làm việc cùng nhau để hình thành các cơ chế tạm
thời nhằm giải quyết các vấn đề an ninh khẩn cấp, đặc biệt là liên quan tới
tranh chấp Biển Đông. Dù cách tiếp cận như vậy có thể ít nhiều làm suy yếu vai
trò trung tâm và sự đoàn kết của ASEAN, nhưng đó có thể là một sự đánh đổi mà
các thành viên ASEAN phải chấp nhận nếu họ kiên quyết muốn giữ vững nguyên tắc
đồng thuận.
***
TS Lê Hồng Hiệp là nghiên cứu viên chính tại Viện Nghiên cứu
Đông Nam Á (ISEAS-Yusof Ishak Institute), Singapore.
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét