Tác giả: Lưu Minh Phúc (Trung Quốc) | Biên dịch: Nguyễn Hải
Hoành
Quốc gia quán quân là quốc gia giàu mạnh nhất xuất hiện
trong quá trình cạnh tranh giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu kể từ sau
khi hình thành hệ thống thế giới cận đại, là quốc gia dẫn đầu thế giới trong một
thời gian, là quốc gia in dấu ấn sâu sắc trên toàn thế giới, có sức ảnh hưởng lớn
nhất trên thế giới.
Đổi ngôi Quán quân:
100 năm quay một vòng
Sự xuất hiện và thay thế Quốc gia quán quân có đặc điểm và
quy luật của nó. Quốc gia quán quân loại hình khác nhau thì có những bộ mặt
khác nhau. Địa vị và tác dụng của quốc gia đó thể hiện ở giá trị của nó đối với
thế giới. Đại diện điển hình các Quốc gia quán quân xuất hiện trên thế giới cận
đại trong 500 năm qua là Bồ Đào Nha ở thế kỷ 16, Hà Lan ở thế kỷ 17, Anh – thế
kỷ 18 và 19, Mỹ – thế kỷ 20. Trung Quốc sẽ trở thành Quốc gia quán quân trong
thế kỷ 21.
Động lực của nước lớn trỗi dậy
Động lực chủ yếu làm cho thế giới phát triển tiến lên là sự
cạnh tranh giữa các quốc gia. Nếu nói nội bộ một quốc gia thì sự cạnh tranh giữa
các giai cấp, tập đoàn, tầng lớp là động lực phát triển của quốc gia, thế thì
sau khi hình thành hệ thống quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia chính là động
lực phát triển thế giới, là động lực giúp nước lớn trỗi dậy.
GS Joseph Nye ở Học viện chính trị Kennedy thuộc Đại học
Harvard nói: “Một số sử gia cho rằng giữa các quốc gia châu Âu có sự cạnh
tranh, đúng là điều này đã làm cho các quốc gia đó luôn tự phát triển. Tại châu
Á, Trung Quốc có địa vị chủ đạo, không nước nào có thể cạnh tranh với họ, vả lại
trên vấn đề đối phó với sự xâm lược của các quốc gia phương Bắc, Trung Quốc chỉ
giải quyết nội bộ, vì thế họ không có động lực bành trướng lãnh thổ.” “Không
nghi ngờ gì nữa, cách đây 1.500 năm Trung Quốc là nước siêu lớn ở Đông Á. Hồi
đó người châu Âu bắt đầu thám hiểm hàng hải, còn người Trung Quốc thì giảm hoạt
động này. Bởi vậy bạn sẽ thấy đa số nước lớn bành trướng sức mạnh tới mấy châu
lục đều bắt nguồn từ châu Âu.”
Theo Nye, sở dĩ phương Tây phát triển nhanh là do giữa các
quốc gia ấy có sự cạnh tranh kịch liệt, đem lại động lực và sức sống cho thế giới.
Trong thời cận đại, phương Đông phát triển chậm, thậm chí không tiến lên, đó là
do chưa hình thành cạnh tranh giữa các quốc gia.
Trên thế giới ngày nay, số lượng quốc gia tham gia cạnh
tranh tăng lên rất nhiều so với ngày trước. Trong thế kỷ 20, số lượng quốc gia
có chủ quyền hợp pháp và giành được độc lập chính trị tăng lên ổn định: thập
niên 1930 chỉ có khoảng 60 nước, cuối thế kỷ 20 có chừng 190 nước. Đến tháng
9/2002, Liên Hợp Quốc có 191 nước thành viên. Năm 2008 toàn thế giới có 225 quốc
gia và lãnh thổ, gồm 194 quốc gia và 31 lãnh thổ. Thế giới đang phát triển
trong sự cạnh tranh và ganh đua giữa các quốc gia. Sức sống, động lực, sức sáng
tạo của cộng đồng quốc tế bắt nguồn từ động lực thúc đẩy của sự cạnh tranh đó.
Cạnh tranh giữa các quốc gia nhất là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn là
động lực lớn nhất làm cho thế giới tiến lên.
Có thể chia mục tiêu cạnh tranh giữa các quốc gia làm mục
tiêu thấp nhất và mục tiêu cao nhất. Nhà lý luận quan hệ quốc tế nổi tiếng người
Mỹ Kenneth Neal Waltz cho rằng quốc gia “coi sự tự bảo tồn mình là mục tiêu tối
thiểu, coi tranh giành quyền dẫn dắt thế giới là mục tiêu cao nhất”. Mục tiêu tối
thiểu của cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia là sự sinh tồn tự thân của quốc gia
đó. Mục tiêu cao nhất là trở thành Quốc gia quán quân thế giới, là giành quyền
dẫn dắt thế giới.
Cuộc vật lộn, cạnh tranh của các quốc gia trên vũ đài thế giới
gồm 4 tầng nấc:
An ninh. An ninh
là mục tiêu chiến lược cơ bản nhất, quan trọng nhất. Lịch sử phát triển và thế
giới tiến bộ đến như ngày nay, tuyệt đại đa số lợi ích an ninh của các quốc gia
dân tộc đều được bảo đảm. Hiện nay 194 quốc gia về cơ bản không tồn tại nguy hiểm
bị chinh phục và tiêu vong, chủ quyền quốc gia của họ trên cơ bản là an toàn.
Chỉ có mười mấy nước bị đe dọa và khốn khổ bởi chiến tranh.
Phát triển. Tuy thế
giới tiến sang thời đại hòa bình và phát triển đã nhiều năm nay, song số quốc
gia thực sự có thể phát triển tương đối lớn và nhanh còn ít. Tổng số nước phát
triển và nước mới công nghiệp hóa chỉ vào khoảng 40~50 nước, chiếm chừng 1/4 tổng
số quốc gia.
Trỗi dậy. Trong
nhóm nước đang phát triển, các nước trỗi dậy là những nước có thể ảnh hưởng tới
tình hình thế giới. Xưa nay những nước như vậy tồn tại và xuất hiện không nhiều,
trong 500 năm gần đây chỉ khoảng mười mấy nước. Hiện nay số nước có cơ hội, có
điều kiện trỗi dậy trở thành cường quốc thế giới cũng chỉ là mấy nước đó.
Quốc gia quán quân
là quốc gia ở đỉnh cao nhất. Thông thường khoảng 100 năm mới xuất hiện một Quốc
gia quán quân. Tuy thế, trên thế giới cận đại 500 năm nay trước sau từng có 7-8
nước tranh giành ngôi báu này, nhưng thực sự tiến lên địa vị này cũng chỉ có mấy
nước đó. Một nước muốn trở thành quán quân trên thế giới tất phải là quốc gia
trỗi dậy, nhưng quốc gia trỗi dậy không nhất định đều trở thành quán quân. Từ một
quốc gia sinh tồn, quốc gia đang phát triển, quốc gia đang trỗi dậy cho tới Quốc
gia quán quân là cả một quá trình phấn đấu thần kỳ.
Thay đổi quốc gia quán quân: Sự thể hiện tập trung sức sống
của thế giới
Khi có sự cạnh tranh giữa các quốc gia thì sẽ có quốc gia
đào thải hoặc chiến thắng. Sự suy thoái của Quốc gia quán quân cũ và sự trỗi dậy
của Quốc gia quán quân mới, sự đổi vị trí của họ thể hiện sức sống tiến bộ và
phát triển của thế giới. Mỗi Quốc gia quán quân mới ra đời đánh dấu một lần nhảy
vọt và tiến bộ có tính lịch sử của thế giới.
Trong phần mở đầu sách “Ngoại giao” (Diplomacy), Kissinger
viết: “Tựa như tồn tại một quy luật tự nhiên nào đó, mỗi thế kỷ đều có một nước
lớn trỗi dậy, họ có sức mạnh, có ý chí, có sự khích lệ về trí thức và đạo đức,
dựa vào giá trị của mình xây dựng lại toàn bộ hệ thống quốc tế.”
Thực ra từ 2.000 năm trước, sử gia vĩ đại cổ Hy Lạp
Herodotus căn cứ quá trình lịch sử thăng trầm của các thành bang Hy Lạp đã đưa
ra một phán đoán nổi tiếng: sự suy vong của đô thị phồn hoa và sự trỗi dậy của
đô thị nhược tiểu đã hùng hồn nói lên một kết luận: xưa nay tình hình tốt đẹp
không bao giờ kéo dài. Điều này trên thực tế vạch ra quy luật phát triển không
cân bằng trong cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia, cũng là luật chu kỳ bá quyền:
Quốc gia quán quân sẽ phải bị thay thế, không thể có một quốc gia nào đó độc
quyền lâu dài.
Hồi thập niên 1980, nhà chính trị học quốc tế nổi tiếng người
Mỹ George Modelski từng đưa ra lý thuyết “chu kỳ trăm năm” thay thế quốc gia bá
quyền, cũng có thể gọi đó là lý thuyết chu kỳ trăm năm về “quyền lãnh đạo thế
giới”. Ông chia nền chính trị quốc tế 500 năm qua làm 5 chu kỳ có tính thế kỷ
(1495 – 2030), cứ cách khoảng 100 năm lại có một nước lớn trỗi dậy, lại xuất hiện
một quốc gia bá quyền dẫn đầu hệ thống thế giới. Trong thời gian ấy đã lần lượt
xuất hiện các quốc gia bá quyền: Bồ Đào Nha thế kỷ 16, Hà Lan thế kỷ 17, Anh Quốc
thế kỷ 18-19, Mỹ thế kỷ 20.
Dù là chu kỳ trăm năm “quốc gia bá quyền” hay là chu kỳ trăm
năm “quyền lãnh đạo thế giới”, điều đó nói lên trong quá trình rượt đuổi cạnh
tranh giữa các quốc gia, chưa hề có Quốc gia quán quân vĩnh viễn. Nhiệm kỳ của
Quốc gia quán quân là “nhiệm kỳ thế kỷ”, “nhiệm kỳ trăm năm”. Người ta thường
nói “thế kỷ Hà Lan”, “thế kỷ Anh”, “thế kỷ Mỹ”, nhiệm kỳ quán quân của các Quốc
gia quán quân này là một thế kỷ. Chế độ nhiệm kỳ hình thành tự nhiên của Quốc
gia quán quân là điều tốt đối với thế giới. Dù là muốn giữ vị trí quán quân hay
muốn tiến lên quán quân, họ đều mang lại cho thế giới sức sống và động lực phát
triển. Sự thay thế Quốc gia quán quân thể hiện trình độ vận động tổng thể của
thế giới được nâng cao. Thí dụ, sự xuất hiện nước Anh đem lại cho thế giới tin
mừng công nghiệp hoá; nước Mỹ tiến lên vị trí quán quân mang lại sự thay đổi mới
cho thế giới; Quốc gia quán quân mới xuất hiện sau Mỹ nhất định cũng sẽ đem lại
cho thế giới một cục diện mới.
Ba bộ mặt của “Quốc gia quán quân”
Đại để có thể chia Quốc gia quán quân thế giới ra làm ba kiểu
loại.
Kiểu thực dân
Quốc gia quán quân “kiểu thực dân” là quốc gia thực hành “chủ
nghĩa đế quốc thực dân”; thông qua sự chiếm đóng quân sự mà tiến hành trực tiếp
thống trị, biến các nước yếu thành thuộc địa của mình, xây dựng đại đế quốc thực
dân. Mấy nước lớn trỗi dậy thời kỳ đầu đều thuộc loại Quốc gia quán quân “kiểu
thực dân”, gồm Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh. Dựa vào lô-gích kẻ cướp “phát hiện thì
chiếm lĩnh”, họ thực hành xâm chiếm bằng vũ lực, xây dựng những đế quốc thực
dân khổng lồ.
Năm 1549, các thuộc địa ở châu Mỹ của Tây Ban Nha chiều Bắc
– Nam dài tổng cộng tới hơn 10 nghìn km, trải rộng trên 67 độ kinh, tổng diện
tích lên tới 25 triệu km2.
Hà Lan thế kỷ 17 không những là một nước lớn về thương mại
mà còn là một cường quốc thực dân. Hoạt động thực dân của Hà Lan chủ yếu tiến
hành thông qua hai công ty Đông Ấn và Tây Ấn. Phạm vi thực dân của công ty Đông
Ấn chủ yếu ở châu Á, của công ty Tây Ấn là ở châu Phi và châu Mỹ. Diện tích các
thuộc địa do hai công ty này xây dựng ở hải ngoại lớn gấp 60 lần chính quốc Hà
Lan.
Anh Quốc là “đế quốc thực dân” với mục tiêu chiếm lĩnh thế
giới trong thời kỳ bành trướng tư bản. Các thuộc địa bị đế quốc Đại Anh xâm chiếm
rộng tới hơn 30 triệu km2, lớn gấp trên 100 lần diện tích chính quốc, chiếm chừng
1/4 diện tích toàn bộ lục địa trên trái đất, số dân gần 400 triệu, gấp 9 lần số
dân chính quốc. Trong 50 năm 1815 – 1865, nước Anh đã mở rộng các thuộc địa của
họ với tốc độ bình quân mỗi năm 100 nghìn km2, xây dựng nên một “đế quốc mặt trời
không bao giờ lặn” cùng một hệ thống thương mại quốc tế phục vụ lợi ích của đế
quốc này. Các thuộc địa ấy cung cấp nhiều nguyên liệu quý cho nước Anh, cũng
như cung cấp kênh xuất khẩu các sản phẩm Anh chế tạo. Tại nước Anh dần dần hình
thành một “tam giác lành tính” gồm thuộc địa hải ngoại, thương mại quốc tế, và
lực lượng hải quân hùng mạnh. Anh trở thành một thế giới thuộc địa, thế giới
buôn bán. Họ dùng hạm đội để hộ tống tàu buôn và kiểm soát thế giới. Năm 1865
nhà kinh tế Anh W. Stanley Jevons mô tả: “Những đồng bằng ở Bắc Mỹ và Nga là
nơi trồng ngô của chúng ta, Canada và biển Baltic là khu rừng của chúng ta,
châu Úc có những bãi chăn gia súc của ta; Peru cho ta bạc trắng; vàng của Nam
Phi và Australia chảy về London; người Ấn Độ và Trung Quốc trồng trà cho ta; cà
phê, mía và hương liệu của ta trồng khắp quần đảo Đông Ấn. Bông của chúng ta
lâu nay trồng tại miền Nam nước Mỹ, hiện nay đang mở rộng đến tất cả mọi vùng ấm
áp trên trái đất.”
Kiểu bá quyền
Quốc gia quán quân “kiểu bá quyền” là quốc gia không coi chiếm
đất và thôn tính đất đai nước khác là mục tiêu, mà thông qua sự dẫn dắt và kiểm
soát thế giới để thực hiện lợi ích bá quyền của mình. Nếu nói Quốc gia quán
quân “kiểu thực dân” thuộc loại “kẻ cướp dã man” thế thì Quốc gia quán quân “kiểu
bá quyền” thuộc loại “kẻ cướp văn minh”. Hai kẻ cướp ấy tuy khác nhau nhưng đều
thuộc hàng kẻ cướp. Nước Mỹ là một tiêu bản của Quốc gia quán quân “kiểu bá quyền”.
Chuyên gia lịch sử ngoại giao Mỹ Warren Cohen viết trong Lịch sử quan hệ đối
ngoại Mỹ như sau:
“Từ năm 1776 trở đi người Mỹ luôn luôn xây dựng một bộ chế độ
của mình nhằm thích ứng với nhu cầu tự thân không ngừng biến đổi của họ. Đúng
thế, họ tranh giành quyền lực thế giới với người châu Âu… Người Philippines,
người Cuba, người Trung Quốc và người Trung Mỹ có đầy đủ lý do để cho rằng Mỹ
chẳng khác gì các nước đế quốc khác. Thế nhưng không như các nước lớn khác, nước
Mỹ có một đại lục lớn để sinh sôi nẩy nở và khai thác, nó không vì thừa dân mà
khát khao chiếm thuộc địa, cũng không vì thiếu nguyên vật liệu mà thèm khát những
lãnh địa bảo hộ rộng lớn, đồng thời cũng không cần (như nước Nga) khát khao chiếm
lĩnh những vùng đất rộng để làm đường đi tới các cảng biển mới xây dựng nhằm tạo
dựng một hệ thống vận chuyển quan trọng.”
“Nước Mỹ không muốn tham gia hàng ngũ của người châu Âu và
người Nhật tìm kiếm lãnh thổ và trở thành đế quốc thực dân. Các quan chức Mỹ chỉ
muốn giành được những mảnh đất phân tán, diện tích tương đối nhỏ để dùng làm cơ
sở bành trướng thương mại cần thiết. Khi sáng tạo và đánh giá thành tích công
nghiệp, người Mỹ cũng không muốn bắt chước người châu Âu, không muốn dùng tiêu
chuẩn của người châu Âu hoặc người Nhật…
Xét về mặt sáng tạo cái mới và xây dựng quy chế, những người
lãnh đạo tổ hợp công ty kiểu Mỹ vượt xa các đối thủ nước ngoài. Mối quan hệ giữa
các tổ hợp đó với chính quyền và các yêu cầu chính sách ngoại giao họ nêu ra với
các quan chức nhà nước cũng khác hẳn các đối thủ của họ.”
“Nước Mỹ là quốc gia – dân tộc đầu tiên của thế kỷ 20. Đổi mới
khoa học, dây chuyền công nghiệp hợp lý hóa và toàn cầu hóa, công ty đa quốc
gia, quyền lực chính trị tập quyền hóa với cơ sở là hệ thống thông tin hiện đại,
chủ nghĩa can thiệp quân sự, chủ nghĩa dân tộc cuồng nhiệt, chủ nghĩa chủng tộc
cực đoan và cuộc cách mạng có ý nghĩa sâu xa – tất cả những cái đó đã cùng tạo
dựng nên tiến trình phát triển của thế kỷ 20.”
Các đoạn viết nói trên đã trình bày các đặc điểm nước Mỹ
không dùng thủ đoạn thực dân để tạo dựng bá quyền.
Cho dù trong thời đại chiến tranh và cách mạng hay là trong
thời đại hòa bình và phát triển, nước Mỹ bao giờ cũng là một “đế quốc bá quyền”
lấy việc kiểm soát thế giới làm mục tiêu. Bá quyền Mỹ thể hiện trên các mặt
chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa.
Sau Thế chiến II, nước Mỹ xuất hiện với tư cách thủ lĩnh chống
chiến tranh phát xít của thế giới, có cái vốn chính trị to lớn, chủ đạo việc cấu
trúc và xây dựng cơ chế quốc tế: xây dựng cơ chế an ninh tập thể của Liên Hợp
Quốc, xác lập địa vị chủ đạo trong nền chính trị quốc tế, xây dựng Ngân hàng thế
giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, xác lập hệ thống tài chính thế giới lấy đồng USD làm
hạt nhân; xây dựng hệ thống thương mại tự do quốc tế lấy cơ sở là hiệp định thuế
quan thương mại; thực hành chiến lược ngăn chặn, đề xuất chủ nghĩa Truman, kế
hoạch Marshall, xây dựng Tổ chức Hiệp ước Đại Tây Dương NATO.
Mỹ là nước đề xướng, kiến tạo Liên Hợp Quốc và là nhà tài trợ
lớn nhất cho Liên Hợp Quốc, cũng là nước hưởng lợi lớn nhất từ Liên Hợp Quốc. Mỹ
luôn luôn thông qua việc thực hành bá quyền chế độ và bá quyền quyền lực để thực
hiện lợi ích quốc gia của họ. Mỹ từng gọi Liên Hợp Quốc là “nền chính trị bạo
tàn của đa số” và dựa theo nguyên tắc nước lớn nhất trí để thiết kế, xây dựng,
lãnh đạo và kiểm soát tổ chức quốc tế quan trọng nhất thế giới này. Trong các
hoạt động thời kỳ đầu của Liên Hợp Quốc, Mỹ kiểm soát và chi phối đa số ổn định
trong Liên Hợp Quốc, thông qua cỗ máy biểu quyết này biến ý chí và nguyện vọng
của họ thành hành động. Trong thời gian 1946 – 1953 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua hơn 800 nghị quyết, tỷ lệ thành công của Mỹ là 97%, bất kỳ vấn đề an
ninh quan trọng nào có liên quan tới Mỹ đều chưa bị thất bại.
Mỹ còn là nước ủng hộ và tổ chức nhiều tổ chức có tính khu vực.
Cái gọi là nguyên tắc nước lớn nhất trí, thực chất là nguyên tắc nhất trí với Mỹ.
Tổng giá trị sản lượng công nghiệp của Mỹ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai
chiếm hơn một nửa tổng sản lượng của toàn thế giới; Mỹ cử quân đội đến đóng tại
50 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Nước Mỹ dùng phương thức của họ để chủ đạo
trật tự quốc tế. Mỹ và Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh lạnh kéo dài gần nửa
thế kỷ với nội dung là tranh giành bá quyền thế giới. Sau khi chiến tranh lạnh
chấm dứt, cuối cùng Mỹ xác lập được địa vị bá quyền của mình, hơn nữa còn thực
hành chủ nghĩa đơn phương, liên tục nhiều lần gây chiến tranh, khoe khoang vũ lực
trước toàn thế giới.
Một biểu hiện quan trọng của bá quyền Mỹ là muốn dùng mô
hình Mỹ để cải tạo thế giới, muốn mở rộng dân chủ kiểu Mỹ trên toàn cầu, muốn
tiến hành Mỹ hóa toàn thế giới. Đây là sự mất dân chủ lớn nhất của bá quyền Mỹ
trong mối quan hệ quốc tế, là sự chuyên chế và độc tài của bá quyền Mỹ.
Kiểu dẫn dắt
Quốc gia quán quân “kiểu dẫn dắt” là loại Quốc gia quán quân
không dùng thủ đoạn chinh phục để xây dựng nền văn minh, không thông qua bá quyền
thế giới và phương pháp chinh phục để thực hiện lợi ích quốc gia của mình. Tuy
hiện nay chưa phải là Quốc gia quán quân, song Trung Quốc khẳng định sẽ là một
Quốc gia quán quân “kiểu dẫn dắt”.
Sử gia Mỹ nổi tiếng Brooks Adams cho rằng các nền văn minh
vĩ đại đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, cổ súy trung tâm văn minh
thế giới không lệ thuộc Mỹ (phi Mỹ), Mỹ nên nắm cơ hội để bành trướng ra bên
ngoài, nhất là bành trướng về phía châu Á và vùng Thái Bình Dương, thực hiện ưu
thế kinh tế của Mỹ trong phạm vi thế giới.
Trên thực tế, đây là một “Thuyết bành trướng có lý”, “Thuyết
chinh phục có lý”, “Thuyết bá quyền có lý”. Trước hết, sự việc nền văn minh tư
bản phương Tây được tạo dựng bằng phương pháp chinh phục không thể chứng minh tất
cả mọi nền văn minh vĩ đại xưa nay đều được xây dựng bằng phương pháp chinh phục
– chẳng hạn nền văn minh Trung Hoa. Thứ hai, nếu nói các nền văn minh vĩ đại đều
được xây dựng bằng phương pháp chinh phục, thế thì phương pháp ấy cũng trở
thành thứ cùng tồn vong với nền văn minh, không có chinh phục thì không có văn
minh, không cần chinh phục là không cần văn minh, chinh phục cũng trở thành một
phần của văn minh. Điều này rất rõ ràng là thứ logic của kẻ cướp. Thứ ba, sự kiện
một số nền văn minh vĩ đại xa xưa được xây dựng bằng phương pháp chinh phục
không có nghĩa là các nền văn minh sau này cũng đều phải được xây dựng bằng
phương pháp chinh phục.
Nền văn minh trong tương lai sẽ là nền văn minh không cần
dùng phương pháp chinh phục để tạo dựng. Trung Quốc sẽ sáng tạo một kiểu nền
văn minh có tính phi chinh phục. Chừng nào còn cần chinh phục để tạo dựng nên
thì loại văn minh ấy là văn minh làm bạn với dã man, không phải là nền văn minh
thực sự cao cấp. Dùng phương pháp phi chinh phục để sáng tạo một loại văn minh
phi chinh phục – đó là trách nhiệm của Trung Quốc, là yêu cầu mà tiến trình
phát triển văn minh thế giới và những người yêu chuộng hòa bình, phát triển và
văn minh trên thế giới đặt ra với Trung Quốc, là cống hiến mà người Trung Quốc
cần đóng góp cho văn minh thế giới. Cũng chỉ có truyền thống văn minh Trung Quốc
và nền tảng văn minh Trung Quốc mới có thể gánh vác nổi nhiệm vụ nặng nề nâng cấp
đổi đời văn minh thế giới như vậy.
Những Quốc gia quán quân trước nước Mỹ (kể cả Mỹ), không nước
nào không có tính hai mang: một mặt Quốc gia quán quân dẫn đầu ngọn trào phát
triển thế giới và có quốc lực tổng hợp xếp hạng thứ nhất, mặt khác lại là quốc
gia bá quyền sử dụng thủ đoạn chiếm lĩnh và chinh phục để thống trị hoặc kiểm
soát nước khác, xưng bá thế giới, áp chế những người bất đồng chính kiến. Nhưng
quốc gia nhất thế giới mà Trung Quốc cần theo đuổi, cần tranh thủ trở thành lại
là một loại Quốc gia quán quân kiểu hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử
thế giới.
Brzezinski từng nói: “Xét về lâu dài, nền chính trị toàn cầu
nhất định sẽ trở nên ngày càng không tương thích với tình trạng một quốc gia độc
đoán nắm sức mạnh bá quyền. Cho nên nước Mỹ không những là siêu cường thực sự
có tính toàn cầu đầu tiên và duy nhất, mà rất có thể cũng là siêu cường cuối
cùng.” Xét từ xu thế phát triển của cộng đồng xã hội và thế giới loài người
cũng thấy nước Mỹ sẽ là quốc gia bá quyền cuối cùng trên trái đất này, thế giới
sau đây sẽ không thể xuất hiện một quốc gia bá quyền mới. Trong cuộc đua phát
triển tiến bộ quốc gia hết vòng này đến vòng khác, bao giờ cũng sẽ xuất hiện
tân Quốc gia quán quân dẫn đầu thế giới, đã không thể không có Quốc gia quán
quân, cũng chẳng thể có tình trạng một quốc gia mãi mãi độc quyền chiếm ngôi
quán quân. Cho nên sự chấm dứt quốc gia bá quyền không đồng nghĩa với sự chấm dứt
Quốc gia quán quân. Trung Quốc không làm quốc gia bá quyền, điều đó không có
nghĩa là không làm Quốc gia quán quân. Xét từ góc độ thế giới, Quốc gia quán
quân kiểu thực dân đã kết thúc từ lâu, Quốc gia quán quân kiểu bá quyền cũng sẽ
chấm dứt, nhưng Quốc gia quán quân kiểu thứ ba, tức kiểu dẫn dắt của Trung Quốc,
là Quốc gia quán quân kiểu mới, tính chất căn bản của nó không phải là tranh bá
và xưng bá thế giới, mà là tranh thủ tiến lên trước và dẫn đầu thế giới.
(Đón đọc phần 2: Giá trị của quốc gia quán quân)
***
Lưu Minh Phúc (Liu MingFu), 65 tuổi, nguyên đại tá Quân Giải
phóng Trung Quốc, giáo sư Đại học Quốc phòng Trung Quốc, đã nghỉ hưu, năm 2010
xuất bản sách Giấc mơ Trung Quốc, đang chuẩn bị xuất bản 3 cuốn sách mới. New
York Times đánh giá ông là học giả diều hâu nổi tiếng nhất trong quân đội Trung
Quốc, quan điểm của Lưu Minh Phúc được coi trọng dưới thời Tập Cận Bình.
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét