Thứ Ba, 7 tháng 11, 2017

Trong chủ nghĩa xã hội, đạo đức còn khan hiếm hơn cả bánh mì

Marian L. Tupy




Chủ nghĩa xã hội không chỉ được chống đỡ bằng bạo lực, nó còn làm cho người ta thoái hóa về mặt đạo đức.

Cách đây vài tuần, tôi đã đến thăm New Orleans, tôi có buổi nói chuyện về sự tiến bộ của con người. Buổi nói chuyện của tôi tập trung vào việc cải thiện mức sống trên toàn thế giới trong 200 năm qua - giai đoạn tăng trưởng chưa từng thấy trong lịch sử mà cuộc cách mạng công nghiệp và thương mại toàn cầu đã tạo ra.

Bảo vệ chủ nghĩa tư bản như một hệ thống kinh tế vững mạnh về đạo đức là rất quan trọng. Một trong những câu hỏi của khán giả liên quan đến đạo đức của chủ nghĩa tư bản. “Ông đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản tạo nhiều của cải hơn là chủ nghĩa xã hội”, một chàng trai trẻ thừa nhận. “Nhưng nó có đạo đức không?”, anh ta hỏi.

Đạo đức của chủ nghĩa tư bản

Đáp lại, tôi nói tới những khía cạnh tự nguyện và ích lợi mang tính xã hội của chủ nghĩa tư bản.

Để kiếm tiền, các nhà tư bản cần phải làm những việc hoặc sản xuất các món hàng hoá mà người khác muốn. (Có, có ngoại lệ. Ví dụ, các nhà tư bản được các quan chức tham nhũng bảo vệ, không phải đối mặt với các lực lượng thị trường, thu được lợi tức độc quyền mà họ không có quyền hưởng. Đó là ý nghĩa của cụm từ “chủ nghĩa tư bản thân hữu”).

Tương tự như thế, những vụ giao dịch giữa các nhà tư bản và người tiêu dùng thường là tự nguyện. Các nhà tư bản không thể ép khách hàng mua hàng hoá và dịch vụ của khu vực tư nhân. (Một lần nữa, có ngoại lệ. Ví dụ, theo chương trình bảo hiểm y tế của Obama (Obamacare), chính phủ Mỹ có thể buộc người dân mua bảo hiểm y tế của các cơ sở tư nhân.)

Bảo vệ chủ nghĩa tư bản như một hệ thống kinh tế vững mạnh về đạo đức là rất quan trọng, vì, như tôi đã nói trước đây: “Cho đến nay, chủ nghĩa tư bản chỉ là định nghĩa gần đây nhất về nền kinh tế dựa trên trao đổi, tài sản cá nhân và tìm kiếm lợi nhuận, bao giờ cũng có những người cho rằng ba cái đó là không thể chấp nhận được [về mặt đạo đức]”.

Những lời hứa hão của chủ nghĩa xã hội

Chủ nghĩa xã hội, như người hỏi tôi ở New Orleans ngụ ý, thường được giả định là đạo đức. Giả định này có hợp lý không?

Chủ nghĩa xã hội làm như nó có thể giải quyết được tất cả các vấn đề của nhân loại, nhưng đưa các tư tưởng của chủ nghĩa xã hội vào trong thực tế bao giờ cũng dẫn tới chế độ độc tài.

Chủ nghĩa xã hội là một lý tưởng không tưởng nhằm giải quyết tất cả các vấn đề của con người, trong đó có nghèo đói và bất bình đẳng. Nhưng than ôi, lý thuyết và thực hành lại mâu thuẫn với nhau.

Karl Marx vẽ ra lợi ích trong tương lai của xã hội xã hội chủ nghĩa như sau:

“Nếu chúng ta chọn vị trí trong cuộc đời, để có thể làm hầu hết mọi việc vì nhân quần thì không có gánh nặng nào có thể làm chúng khom lưng, vì đấy là sự hi sinh vì lợi ích của tất cả mọi người; lúc đó chúng ta sẽ không còn niềm vui ích kỉ, nhỏ nhen và giới hạn, mà hạnh phúc của chúng ta sẽ thuộc về hàng triệu người, việc làm của chúng ta sẽ sống lặng lẽ nhưng mãi mãi hữu ích và những giọt nước mắt nóng bỏng của những con người cao quý sẽ rơi trên tro cốt của chúng ta”.

Leon Trotsky, nhà cách mạng Liên Xô, viết rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa:

“Con người sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, khôn khéo hơn và tinh tế hơn gấp nhiều lần; cơ thể sẽ trở nên hài hòa hơn, đi lại nhịp nhàng hơn, giọng nói du dương hơn. Cuộc sống sẽ trở nên ấn tượng hơn. Người trung bình cũng sẽ vươn lên đỉnh cao của Aristotle, Goethe, hay Marx. Và trên những đỉnh cao này, sẽ xuất hiện những đỉnh cao mới”.

Fidel Castro tuyên bố rằng cuộc Cách mạng ở Cuba là “cuộc cách mạng của những người khiêm nhường, cùng với những người khiêm nhường và vì những người khiêm nhường” và cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội của ông ta là “cuộc đấu tranh vì cuộc sống của tất cả trẻ em trên toàn thế giới”.

Che Guevara, nhân vật số hai sau Castro, thì nói rằng, “Có nguy cơ dường như vô lý, tôi xin nói rằng cuộc cách mạng chân chính được hướng dẫn bởi cảm giác tuyệt vời của tình yêu. Nghĩ tới cuộc cách mạng thực sự mà không có phẩm chất này là điều bất khả thi”.

Điều đó, đối với nhiều người là tình cảm cao quý, vẫn được ghi trong cương lĩnh của Đảng Xã hội Mỹ, với khẳng định rằng “Chúng tôi cam kết chuyển hóa chủ nghĩa tư bản thông qua quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa dân chủ dựa trên lòng từ bi, thông cảm và tôn trọng ...”

Chủ nghĩa tập thể tạo ra chế độ chuyên chế

Bất đồng chính kiến trong chủ nghĩa xã hội là khó vì nhà nước là người sử dụng lao động duy nhất.

Đưa các tư tưởng của chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn tạo ra nhiều vấn đề hơn hẳn. Một trong những khuyết tật rõ ràng nhất của chủ nghĩa xã hội khi áp dụng vào cuộc sống thực là khuynh hướng dẫn tới chế độ độc tài. Hiện nay, quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và độc tài thể hiện rõ nhất là ở Venezuela. Nhà kinh tế học Friedrich Hayek, Nobel kinh tế, là người đầu tiên viết về hiện tượng này trong tác phẩm Đường Về Nô Lệ.

Năm 1944, khi chấp bút tác phẩm này, Hayek nhận xét rằng những tội ác của những người xã hội chủ nghĩa quốc gia Đức và tội ác của những người cộng sản Liên Xô phần lớn là kết quả của sự kiểm soát ngày càng gia tăng của nhà nước đối với nền kinh tế.

Ông giải thích rằng, sự can thiệp ngày càng gia tăng của nhà nước vào kinh tế dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trên diện rộng và những hàng người dài dằng dặc bên ngoài những cửa hàng trống rỗng. Tình trạng khủng hoảng kinh tế thường trực như thế sẽ dẫn đến những lời kêu gọi kế hoạch hóa nhiều hơn nữa.

Nhưng kế hoạch hóa kinh tế thù địch với tự do. Vì trong xã hội tự do, người ta không thể đồng ý với nhau về một kế hoạch duy nhất, việc tập trung hoá quá trình ra quyết định về kinh tế phải song hành với tập trung hóa quyền lực chính trị vào tay một nhóm nhỏ. Cuối cùng, thất bại của kế hoạch hóa tập trung trở thành hiện tượng không thể nào phủ nhận được, các chế độ toàn trị thường bịt miệng những người bất đồng chính kiến - đôi khi bằng những vụ giết người hàng loạt.

Bất đồng chính kiến trong chủ nghĩa xã hội là việc khó khăn, vì nhà nước là người sử dụng lao động duy nhất. Xin trích dẫn Trotsky một lần nữa: “Ở đất nước mà nhà nước là người sử dụng lao động duy nhất thì đối lập nghĩa là chết đói một cách từ từ. Nguyên tắc cũ: Không làm việc thì không được ăn, đã được thay bằng nguyên tắc mới: Không vâng lời thì không được ăn”. Nói cách khác, kinh tế tự do là điều kiện cần, mặc dù chưa đủ, cho tự do chính trị.

Ở Đông Đức, người ta thường theo dõi hàng xóm, thậm chí theo dõi cả vợ/chồng mình.

Rõ ràng là, không phải mọi người đều nghĩ rằng chế độ độc tài và những vụ giết người hàng loạt là cái giá quá cao, nếu có được bình đẳng. Ví dụ, có người hỏi Eric Hobsbawm, nhà sử học theo trường phái Marxist ở Anh, rằng nếu chủ nghĩa cộng sản đạt được mục đích của mình, nhưng chỉ có 15 đến 20 triệu người bị giết chứ không phải là 100 triệu người như từng xảy ra Nga và Trung Quốc thì ông có ủng hộ hay không? Câu trả lời của ông là một từ duy nhất: Có. Ngay cả hôm nay, nhiều người, trong đó có Thủ tướng Canada, Justin Trudeau, còn xun xoe trước chế độ độc tài ở Cuba, vì nước này có nền giáo dục và chữa bệnh được cho là miễn phí.

Tôi viết “được cho là”, vì trong chủ nghĩa xã hội, hối lộ (ví dụ, trả ngay bằng tiền mặt hay móc ngoặc) là hiện tượng phổ biến. Bác sĩ cảm thấy rằng nhà nước trả lương quá thấp, đòi phải hối lộ thì mới chăm sóc bệnh nhân. Các giáo viên cũng như vậy, họ ưu ái con của bác sĩ để được chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Quá trình này kéo dài tới cửa hàng bán thực phẩm.

Hối lộ và trộm cắp thường song hành với nhau. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước nắm tất cả các cơ sở sản xuất, như nhà máy, cửa hàng và trang trại. Để có cái gì đó trao đổi với nhau, đầu tiên là phải “ăn cắp” của nhà nước. Ví dụ, người bán thịt ăn cắp thịt để đổi lấy rau mà người bán rau ăn cắp được..v.v…

Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội làm người ta thoái hóa về mặt đạo đức.

Trong chủ nghĩa xã hội, móc ngoặc có thể xảy ra được theo những cách khác. Ví dụ, ở Đông Đức, người ta thường theo dõi những người hàng xóm, thậm chí theo dõi cả vợ/chồng.

Tổng số cảnh sát mật và các cộng tác viên không chính thức chiếm khoảng 2% dân số.

Nếu tính cả những chỉ điểm không thường xuyên, thì cứ sáu người Đông Đức có một người, lúc này hay lúc khác, đã từng theo dõi những người đồng bào của mình.

Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội không chỉ được chống đỡ bằng bạo lực, nó còn làm người ta thoái hóa về mặt đạo đức. Nói dối, ăn cắp và chỉ điểm là hiện tượng phổ biến và niềm tin giữa người với người đã không còn. Không những không khuyến khích tình huynh đệ giữa người với người, chủ nghĩa xã hội làm cho mọi người đều trở thành đáng ngờ và đầy sân hận.

Tôi đã khẳng định từ lâu rằng, thiệt hại lớn nhất mà chủ nghĩa xã hội gây ra không phải là kinh tế. Mà là tinh thần. Nhiều nước vứt bỏ chủ nghĩa xã hội đã xây dựng lại nền kinh tế của mình và trở nên thịnh vượng. Nhưng không thể nói như thế các thiết chế của họ, ví dụ, thượng tôn pháp luật, cách hành cử của công dân và nạn tham nhũng.

Thịnh vượng là kết quả của việc dỡ bỏ những rào cản đối với việc trao đổi giữa những con người tự do. Nhưng làm thế sao để làm có xã hội ít tham nhũng hơn và tuân thủ pháp luật hơn?

Nói cách khác, di sản thực sự của chủ nghĩa xã hội không phải là bình đẳng, mà là vô đạo đức.
 *
Marian L. Tupy là biên tập viên trang HumanProgress.org và là nhà phân tích chính sách cao cấp tại Center for Global Liberty and Prosperity.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét