Thứ Tư, 29 tháng 11, 2017

Vụ Trịnh Xuân Thanh: TBT Trọng đã ‘cam kết’ với Đức?

Thiền Lâm - Cali Today
Phải mất đến 4 tháng kể từ khi vụ “bắt cóc Trịnh Xuân Thanh” kéo theo cuộc khủng hoảng Đức – Việt, một tín hiệu đầu tiên về khả năng Hà Nội có thể nhượng bộ Berlin mới hiện ra.
VOA tiếng Việt cho biết phía Đức hôm 27/11 đã phản hồi sau khi Tổng bí thư Việt Nam Nguyễn Phú Trọng muốn “khẩn trương” xét xử vụ Trịnh Xuân Thanh. Trả lời VOA tiếng Việt, một nguồn tin không muốn nêu tên trong Bộ Ngoại giao Đức nói rằng chính quyền Berlin “hiện vẫn trao đổi với chính phủ Việt Nam” về vụ ông Thanh. Khi được hỏi phía Hà Nội đã hồi đáp như thế nào trước các đề nghị Berlin đưa ra hồi tháng Chín, trong đó có yêu cầu Việt Nam xin lỗi và cam kết không lặp lại việc vi phạm pháp luật của Đức, nguồn tin ngoại giao này nói: “Việt Nam biết cần phải làm gì để sửa chữa thiệt hại đã gây ra và để từng bước đưa mối bang giao song phương trở lại quan hệ đối tác chiến lược”…
Kể từ tháng Mười khi tạo nên cơn động đất khi đột ngột tuyên bố tạm thời đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, đây là lần đầu tiên người Đức – dù chỉ là gián tiếp mà chưa có một thông báo chính thức nào – hé ra ý có thể phục hồi mối quan hệ này, do đó cũng mang lại một tia hy vọng cho giới chóp bu Việt Nam bị cáo buộc đã dùng lực lượng mật vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ngay tại Berlin vào cuối tháng 7/2017.
Có thể hiểu rằng quan hệ đối tác chiến lược là hình thức quan hệ song phương ở cấp độ cao nhất giữa hai quốc gia, bao gồm toàn diện các vấn đề chính trị, ngoại giao, kinh tế, xã hội, văn hóa, quân sự, khoa học kỹ thuật. Một khi bị đình chỉ vĩnh viễn mối quan hệ này, chính thể độc đảng ở Việt Nam không chỉ mất đi một “đối tác tiềm năng” là Đức – đầu tàu kinh tế và chính trị của châu Âu, mà còn phải chịu hậu quả nhiều nước châu Âu quay lưng với Việt Nam về ngoại giao và kinh tế.
Vào tháng 8/2017, ngay sau khi ra tuyên bố phản đối Việt Nam bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, Đức đã xem xét lại toàn bộ chương trình cấp tín dụng ưu đãi cho Hà Nội, đồng thời phát tín hiệu về ngưng trệ vô thời hạn việc thông qua Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – châu Âu (EVFTA) – một lợi ích kinh tế mà Việt Nam quá mong muốn hầu mong để duy trì được số xuất siêu lên đến 25 tỷ USD hàng năm vào thị trường châu Âu, nhằm cân bằng với con số nhập siêu lên đến 30 tỷ USD (đường chính ngạch) và 20 tỷ USD (đường tiểu ngạch) mỗi năm từ Trung Quốc.
Trong khoảng thời gian từ tháng Mười năm 2017 đến nay, hầu như không có tin tức từ phía Đức về vụ Trịnh Xuân Thanh và những cuộc đàm phán (nếu có) với Hà Nôi. Chỉ biết rằng tại Hội nghị thượng đỉnh kinh tế APEC 2017 được Việt Nam đăng cai tổ chức tại Đà Nẵng vào đầu tháng 11/2017, phía Đức đã không có một đoàn nào tham dự, kể cả cấp đại sứ tại Việt Nam – như một phản ứng gián tiếp về việc chính quyền Việt Nam chưa xin lỗi về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh và cũng chưa “cam kết sẽ không tái phạm”.
Việc nguồn tin giấu tên từ Bộ Ngoại giao Đức trả lời đài VOA tiếng Việt đã vừa xác nhận giữa Chính phủ Đức và Việt Nam vẫn tiếp tục đàm phán liên quan vụ Trịnh Xuân Thanh, nhưng lại không thể hiện phản ứng nào trước việc Tổng bí thư Trọng vừa quyết định đưa Trịnh Xuân Thanh ra xét xử vào tháng Giêng năm 2018, cho thấy có khả năng phía Đức đã nhận được một “cam kết” nào đó từ phía Việt Nam, mà cụ thể là từ Nguyễn Phú Trọng. Một “cam kết” với nội dung và mức độ có thể đủ để Chính phủ Đức tạm hài lòng, tạm hy vọng và tạm thời bắt đầu nhắc lại về tương lai phục hồi quan hệ đối tác chiến lược Đức – Việt


Nếu có hứa hẹn, ông Trọng đã “cam kết” những gì với người Đức? Và liệu ông có giữ lời, trong khi còn quá nhiều bài học Việt Nam nuốt lời với quốc tế. Ảnh RFA


Nhìn lại ngày 25/11 vừa qua, khi họp Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng trung ương và quyết định đưa Trịnh Xuân Thanh ra tòa, ông Trọng có vẻ thể hiện sự tự tin – thái độ tương tự với việc ông thông báo cho cử tri Hà Nội về thời điểm tổ chức Hội nghị trung ương 6 vào đầu tháng 10/2017.
Có thể lý giải thái độ tự tin của ông Trọng khi thông báo công khai đưa Trịnh Xuân Thanh ra tòa: ông đã nắm được một ý tứ nào đó từ phía Đức, rằng người Đức sẽ không phản ứng đối với quyết định của ông, trên cơ sở người Đức đã có thể tạm hài lòng với những lời hứa hẹn (nếu có) của ông.
Nếu khả năng Tổng bí thư Trọng đã có “cam kết” với Đức về vụ Trịnh Xuân Thanh là đúng, có thể cho rằng không chỉ tương lai phục hồi quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam với Đức là có đôi chút cơ sở, mà Việt Nam cũng bắt đầu có thể hy vọng vào tương lai EVFTA, nếu không phải được thông qua trong năm 2018 thì sẽ vào năm 2019 hoặc năm 2020.
Câu hỏi còn lại là nếu có hứa hẹn, ông Trọng đã “cam kết” những gì với người Đức? Và liệu ông có giữ lời, trong khi còn quá nhiều bài học Việt Nam nuốt lời với quốc tế?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét