Đối với những người làm nông nghiệp,
đặc biệt là người trồng cây hồ tiêu, thì bệnh chết nhanh, chết chậm của cây
tiêu là nỗi khiếp sợ đối với người trồng tiêu. Căn bệnh này được coi là bệnh
“nan y” của cây tiêu.
Nguyên nhân gây ra bệnh chết nhanh
là do một loại nấm sống dưới đất, gọi là Phytophthora parasitica var. piperana.
Nấm Phytophthora thường kết hợp với các loại nấm ở trong đất khác cùng tấn công
cây hồ tiêu làm cây chết rất nhanh. Bệnh chết chậm do các loại nấm
Fusarium sp., Rhizoctonia sp., Pythium sp,… gây hại lên bộ rễ. Khi mắc bệnh
này, cây tiêu sinh trưởng chậm, lá nhỏ lại, biến thành màu vàng. Quá trình từ
khi cây tiêu bị bệnh đến khi chết có thể
kéo dài cả năm.
Đối với ĐCSVN cũng vậy. Hiện nay
đảng cũng đang bị nhiễm rất nặng căn bệnh chết nhanh và chết chậm y như cây hồ
tiêu vậy. Nó làm cho đảng ngày càng còi cọc, rệu rã, ngắc ngoải. Tuy có phát
triển về mặt số lượng, nhưng chất lượng thì ngày càng giảm sút, kém cỏi.
Kể từ khi thành lập đến nay, gần
90 năm qua, chưa bao giờ đảng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn như những năm
gần đây. Phải nói thẳng là đảng đang bị thối rữa từ trong ruột thối ra.
Đảng đang trong quá trình phân hủy
y như vị lãnh tụ của đảng trong Lăng Ba Đình vậy.
Mặc dù đảng đã dùng trăm phương
nghìn kế, mời rất nhiều những chuyên gia đầu ngành về Bệnh học để mong tìm cách
cứu vãn. Nhưng xem ra, tốc độ lây lan của căn bệnh “chết nhanh, chết chậm”
trong đảng đang phát triển theo cấp số nhân.
Phong trào từ bỏ đảng phát triển
rầm rộ khắp nơi. Nhiều nhân sĩ trí thức nổi tiếng đã công khai tuyên bố rời bỏ
đảng. Tiêu biểu như Luật gia Lê Hiếu Đằng, GS Tương Lai, GS Nguyễn Đình Cống,
TS Phạm Chí Dũng, TS Bác sĩ Đinh Đức Long, Trung tá Trần Anh Kim, nhà văn Phạm
Đình Trọng, v.v…
Những người còn lại họ chưa bỏ đảng
là vì họ nghĩ rằng, ngày nào họ còn sống trong cái “trại súc vật” đầy rẫy rác
rưởi và hôi hám này, là thêm một ngày họ đang bị đày đọa. Nhưng họ cố gắng bịt
mũi để thở. Cố gắng đứng trong đó để tìm những dịp có cơ hội hành động tốt để
giúp dân, như đại tá công an Nguyễn Đăng Quang, như bà Nguyễn Thị Lan, cựu Bí
thư xã Đồng Tâm là một ví dụ.
Ngoài ra còn rất nhiều người từ bỏ
đảng âm thầm. Khi đến tuổi về hưu, trở về địa phương sinh sống, họ không nạp giấy
tờ sinh hoạt đảng về nơi ở mới. Vậy là “GOOD BYE” thôi.
Nếu nói về sự tan rã của CNCS,
không thể không nói đến cuộc “Cách Mạng Nhung” của các nước cộng sản Đông Âu, và sự tan rã của
Liên Bang Xô Viết. Khi CNCS đã trở nên nỗi khiếp sợ vì gieo rắc bao tai họa cho
nhân dân, đến thời kỳ tự phân hủy và thối rữa theo quy luật, thì người dân các
nước ấy đã đứng lên đạp đổ cái chế độ thối nát hại dân ấy, để xây dựng chế độ
thực sự của dân, do dân và vì dân. Nhờ thoát khỏi căn bệnh dịch hạch của CNCS,
giờ đây đời sống của nhân dân các nước ấy thay da đổi thịt từng ngày. Dần theo
kịp các nước văn minh Âu Mỹ.
Đối với ĐCSVN: Trước đây việc để
được đứng dưới ngọn cờ “quang vinh muôn năm” và “bách chiến bách thắng” của đảng,
đảng đề ra nguyên tắc tuyển chọn rất khắt khe. Ngoài việc xét lý lich ba đời
“trong sạch”, phải là thành phần bần cố nông, đảng còn đặt ra rất nhiều thử
thách khác. Như phân công hai đảng viên thường xuyên kềm cặp và theo dõi mọi
phát ngôn và hành động của những người chuẩn bị kết nạp. Và họ còn tiếp tục bị
theo dõi sau khi kết nạp 1 năm. Nếu tiếp tục phấn đấu tốt, họ mới được trở
thành đảng viên chính thức. Vì đường lối của đảng là kiểm soát cả tư tưởng và
hành động của con người. Biến hàng triệu đảng viên thành một bầy cừu khổng lồ để đảng chăn dắt.
Đối với những thành phần có dính
líu đến chế độ cũ, mà đảng gọi là “ngụy quân ngụy quyền”, và với người công
giáo, thì điều kiện để được kết nạp vào đảng còn khó khăn gấp mười những người
bình thường. Những thành phần này dù có được đảng ưu ái cho đứng trong hàng ngũ
của đảng, thì cũng chỉ là đảng viên loại 2, không bao giờ được đảng tin tưởng,
cho làm lãnh đạo, làm cấp trưởng, dù năng lực họ hơn hẳn những người có lý lịch
“trong sạch” kia.
Nhưng ngày nay, đứng trước nguy
cơ tan rã cận kể, đảng đã thay đổi chiến lược. Đảng tăng cường lấy số lượng bù
cho chất lượng, bằng cách ồ ạt kết nạp rất nhiều đảng viên mới. Chiến lược của
đảng lúc này là cứ lùa chúng vào chuồng. Dù cho đó là con em “ngụy quân ngụy
quyền”, hoặc người công giáo đi nữa, với phương châm: “Méo mó có hơn không”.
Một khi đã vào đứng trong hàng
ngũ của cái “trại súc vật” ấy, thì mọi hành động, cử chỉ, ngôn ngữ đều có người
theo dõi và giám sát. Ngoài ra, hàng tháng, hàng quý, đảng bắt buộc họ phải họp
chi bộ, đảng bộ. Chưa nói đến thỉnh thoảng đảng bắt các “trại viên” phải học tập nghị quyết này, nghị quyết nọ, nhằm thường
xuyên nhồi nhét vào đầu óc họ cái gọi là “lập trường quan điểm”, để “mài sắc ý
chí chiến đấu”. Nội dung của các buổi họp chi bộ, đảng bộ là gì? Vẫn là nhai đi
nhai lại luận điệu “ơn đảng ơn bác”, “ta thắng địch thua”, là “tuy CNXH có thất
bại trước mắt, nhưng tương lai sẽ toàn thắng”… Sau đó là màn kịch bắt các đảng
viên “xưng tội”với chiêu bài “ phê và tự phê”, bằng cách viết bản tự kiểm điếm,
tự nói ra những tội lỗi của mình, và “bới lông tìm vết”, moi móc cho ra những khuyết điểm của các đồng chí khác. Ai bới
móc được nhiều những tỳ vết của đồng chí khác, được đảng coi như những thành
tích, làm cơ hội thăng tiến cho đảng viên.
Đa số đảng viên hiện nay chỉ coi
việc đứng trong hàng ngũ của đảng là cơ hội để kiếm ăn, như cái “cần câu cơm”.
Một khi đã được đứng trong hàng ngũ của đảng rồi, liền vận dụng hết trò ma mãnh, thủ đoạn để tiến thân bằng mọi
giá, kể cả tiêu diệt người đồng chí đồng đội của mình. Họ dùng quyền lực kết hợp
với những người cùng phe nhóm, đề ra các chủ trương, chính sách với vẻ bề ngoài
là phục vụ nhân dân. Nhưng mục đích chính là mang lại lợi lộc cho phe nhóm
mình, gọi là “nhóm lợi ích”.
Sự tác oai tác quái của nhóm này
đã làm tàn lụi nền kinh tế nước nhà, dẫn đến tình trạng nợ nần ngập đầu. Chính
đó là mầm mống dẫn đến sự tan rã và sụp đổ của chế độ không còn xa.
Họ chẳng mặn mà thiết tha gì đến
cái “lý tưởng cao đẹp” của những người
cs như đảng tuyên truyền bịp bợm lâu nay.
Đến nỗi TBT Nguyễn Phú Trọng phải
than thở não nề về tình trạng “chán Đảng, khô Đoàn, nhạt chính trị” hiện nay
(1).
Trước tình hình nguy cấp như
trên, kể từ đầu năm 2007, đảng đã có sáng kiến, là dựng thần tượng ông Hồ lên
làm lá bùa hộ mệnh để che chắn, vớt vát cho uy tín ngày càng sa sút của đảng. Đảng
tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, đồng
thời phổ biến cuộc vận động này đến chi bộ đảng và thông báo trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Mặc dù lúc còn sống, ông Hồ từng nói rằng, tôi chẳng có tư
tưởng nào cả ngoài tư tưởng Mác-Lê và Mao mà thôi.
Nhưng đảng vẫn cố nhào nặn ra một
mớ lý luận tạp nham nào đó, thực chất là cóp nhặt tư tưởng của người khác. Đảng
lập ra cái gọi là “Hội đồng Lý luận Trung ương”, mà có người gọi là “Hội đồng
lú lẫn”, với những bổng lộc ưu đãi đặc biệt. Mục đích là gom những người có học
hàm học vị đầy mình này ngồi chung một mâm, để sản xuất ra mớ lý luận lăng
nhăng, để bắt đảng viên học tập. Vì nếu để mấy ông già gân này ngồi không sau
khi về hưu, họ sẽ nói toạc ra những căn bệnh kinh niên của đảng, thì rất nguy
hiểm cho sự tồn vong của chế độ.
Những việc làm đó cũng chỉ như
phun các loại thuốc dưỡng cây vậy, chỉ phun trên lá trên cành. Tuy có làm cho
lá non xanh tươi, nhưng không thể làm cho cây trồng hết bệnh.
Vậy căn bệnh trầm kha trong ĐCSVN
hiện nay là gì?
Trước căn bệnh chết nhanh chết chậm
đang phát triển và lây lan ngày càng mạnh như hiện nay, đảng đã phải cắn răng bốc
thuốc kháng sinh liều cao bắt toàn đảng phải cố nuốt, nhằm ngăn chặn nạn dịch
nguy hiểm này. Với đơn thuốc mang tên: “Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”
(2).
Qua đó, đảng chỉ ra 27 căn bệnh
nan y đang ở vào giai đoạn cuối.
Nhưng tựu trung lại, nằm trong 2
căn bệnh chính. Đó là tham nhũng và suy thoái đạo đức, lối sống.
Về căn bệnh tham nhũng trong đảng,
hiện nay đang “nở rộ” muôn hình muôn vẻ. Ngoài việc tham nhũng tiền bạc, các đảng
viên còn phát huy tính năng động và sáng tạo của những người cs, phát minh thêm
nhiều kiểu tham nhũng khác, là tham nhũng quyền lực, tham nhũng bằng cấp, học vị…
Những “mặt hàng” tham nhũng này
nó đi liền với nhau, cùng nhau song hành và hỗ trợ lẫn nhau. Vì vốn xuất thân từ
tầng lớp “khố rách áo ôm”, đa số người của đảng chui từ trong hang trong rừng
ra thì làm gì có học. Và để gạt bỏ cái mặc
cảm ấy, đảng đề ra các tiêu chí về bằng cấp để được thăng tiến. Vậy muốn có bằng
này bằng nọ thì phải “mua”. Khi mua được bằng rồi thì phải mua chức. Khi có chức
rồi thì vơ vét để thu hồi vốn và tiếp tục đầu tư. Vậy là các lò đào tạo tại chức,
lò ấp tiến sĩ mọc lên như nấm. Vì bằng cấp và học vị càng cao, thì cơ hội tiến
thân càng lớn.
Về bằng cấp trong đảng ngày nay,
nó đã trở nên chủ đề cho các trận cười
trong dân gian, làm trò hề cho thiên hạ cười chê. Người dân đã gọi các trung
tâm đào tạo bằng cấp ây là các “Lò ấp Tiến sĩ”, với năng suất hàng năm “nở” ra
hàng ngàn “Tiến sĩ giấy”. Nó khôi hài đến nỗi, tỉnh Quảng Ngãi đề ra chủ
trương, buộc các vị thạc sĩ phải đi học đại học chính quy. Vì “thạc sĩ gì mà đến
cái văn bản không viết nổi”(3).
Khi đã có bằng cấp, chức quyền, địa
vị và vơ vét được nhiều rồi, thì các quan tham rửng mỡ và cặp kè bồ nhí, vợ bé
để quản lý tài sản tham nhũng. Có những vị hành động lộ liễu đến nỗi, bổ nhiệm
những em chân dài không đủ tiêu chí vào chức này chức nọ để “sửa túi nâng khăn”
cho mình.
Tình trạng này tràn lan đến nỗi,
bà ĐBQH Trần Thị Quốc Khánh đã làm nóng nghị trường QH khi nói rằng: “ rong thực
tế thời gian vừa qua dư luận, báo chí, cử tri rất băn khoăn còn một bộ phận
không nhỏ cán bộ lãnh đạo, kể cả những người đứng đầu cấp ủy đảng các địa
phương có biểu hiện “quan tâm” đến phái nữ vì muốn có thêm vợ bé, hay bồ nhí để
quản lý khối tài sản khổng lồ do tham nhũng mà có”.(4)
ĐBQH Dương Trung Quốc thì bồi
thêm đòn chí mạng khi nói rằng, chống tham nhũng là trận đánh cuối cùng, ý nói
rằng, nếu không chống được tham nhũng thì đảng sẽ tắt thở: “Nếu muốn tham nhũng
thì phải có quyền lực, mà gần như tuyệt đối quyền lực thuộc về Đảng. Không phải
đảng viên thì đến chức phó phòng cũng không có. Như thế có nghĩa là trong thực
tế ở Việt Nam, tham nhũng đối với người dân về căn bản là miễn dịch.”
“Với giặc ngoại xâm không có trận
nào là trận cuối cùng, nhưng với sự tồn vong của chế độ, của đảng cầm quyền thì
đây là “trận đánh cuối cùng”(5).
Nói đến sự suy thoái đạo đức và
thành tích dâm ô của đảng, sẽ là thiếu sót nếu không nói đến ông già đảng viên
tuổi ngoài 70 Nguyễn Khắc Thủy, nguyên Gíám đốc Ngân hàng NNVN tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu. Do đã “học tập và làm theo tấm gương đạo đức” của lão già dâm tặc xưa, lão già này đã dụ dỗ,
sàm sỡ, giở trò dâm ô với hàng loạt bé gái đáng tuổi cháu chắt mình. Sau khi đảng
không thể che chắn cho con quái vật đội lốt người này vì áp lực dư luận quốc tế
và báo chí cùng dư luận trong nước, đảng đã phải kết án lão già này 3 năm tù,
thì Nguyễn Khắc Thủy đã đưa công trạng 51 năm theo đảng của mình ra hù dọa tòa
và đòi đốt thẻ đảng, và hô to “phản đối” và “đã đảo”(6).
Lẽ ra sau khi nghe tòa tuyên án, Nguyễn Khắc Thủy
nên hát bài Quốc tế ca có sửa lời: “Vùng lên hỡi các đồng chí ấu dâm trong đảng
ta ơi”. Như Nguyễn Văn Trỗi trước đây, trước lúc phải “dựa cột” để đền tội, đã
hô HCM muôn năm:
“Phút giây thiêng anh gọi bác ba
lần” (Tố Hữu).
Như kiểu kêu tên cực trọng để
mong được cứu rỗi vậy.
Mặc dù ông Trọng cố vắt óc
nghĩ ra nhiều biện pháp nhằm cứu vãn đảng,
bằng cách phát động chiến dịch đốt lò. Nhưng xem ra kết quả chẳng được bao
nhiêu. Mặc dù trong chiến địch đốt lò này, ông Trọng đã dám sờ đến cả Ủy viên
BCT như Đinh Là Thăng, và các UVTƯ như Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Xuân Anh, và hàng
loạt cán bộ cấp dưới như Hồ thị Kim Thoa, Thứ trưởng Bộ Công thương, hay cựu Chủ
tịch tỉnh Gia Lai Phạm Thế Dũng, cựu Bí thư Bình Định Nguyễn Văn Thiện và Phó
Bí thư Lê Kim Toàn, cựu Bí thư Hậu Giang Huỳnh Minh Chắc, v.v… Nhưng xem ra đây
chỉ là phần nổi của tảng băng.
Vẫn còn hàng hà sa số những cán bộ
đảng viên tham nhũng từ cao đến thấp, đang nhung nhúc khắp mọi nơi như những bầy
sâu, và “chúng ăn không từ một thứ gì của dân”. Vì vậy ông Trọng mới có những
câu nói nổi tiếng mang tính đầu hàng, được cho là những phát ngôn “vĩ đại” nhất trong sự nghiệp
chính trị của đời ông, thể hiện đẳng cấp Lú vô địch của ông ấy là: “Đánh chuột
đừng đập vỡ bình”, và “ Chống tham nhũng khó vì Ta tự đánh Ta”…
Vì những thanh củi ông Trọng cho
vào lò cũng chỉ là loại củi được lựa chọn. Mục đích chính của chiến dịch đốt lò
này là những trận đấu đá nội bộ để tranh giành quyền lực và quyền lợi về cho
phe nhóm mình. Vì vậy, những con sâu bự ăn tàn phá hại và của cải vơ vét của cải
chất đầy như núi, bị nhân dân nguyền rủa như Đinh La Thăng, Trịnh Văn Chiến,
Nguyễn Thị Kim Tiến, Võ Kim Cự, Huỳnh Đức Thơ, Phạm Sĩ Quý, v.v… thì vẫn “bình
chân như vại”.
Đảng CSVN ngày nay đang trên đà
suy thoái và tan rã với tư tưởng bán nước cầu vinh, không còn đủ khả năng và uy
tín để đưa con thuyền dân tộc qua cơn sóng gió trước tham vọng của Bắc Kinh, và
nạn tham nhũng đang làm lung lay chế độ.
Bởi vì, như Đức Giáo hoàng Jean
Paul II từng nói: “Chủ nghĩa cộng sản trong chừng mực một hệ thống đã được phơi
bày, là một phương thuốc chữa bệnh còn nguy hiểm hơn bản thân căn bệnh” (Le
communisme en tant que système s’est révélé – un remède plus dangereux que la
maladie elle-même).
Bài học cho ĐCSVN hiện nay là,
hãy học kinh nghiệm của người nông dân trồng tiêu: Một khi cây đã nhiễm bệnh
thì tốt nhất là chặt bỏ, đào cả gốc rễ, bứng đất đổ đi, cây thì đem đốt.
Hãy trả lại quyền tự quyết cho
nhân dân Việt Nam, như lời bài hát “Trả Lại Cho Dân” của tác giả Duy Quốc Nam,
là :
“Trả lại đây cho nhân dân tôi
Quyền tự do, quyền con người
Quyền được nhìn, được nghe, được
nói
Quyền được chọn chân lý tự do
Quyền xóa bỏ độc tài độc tôn”.
Có như vậy mới hy vọng thoát khỏi
ách đô hộ của Tàu cộng, và mang lại tự do hạnh phúc thực sự cho nhân dân Việt
Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét