Bà Tina Mufford, Nhà phân tích
chính trị của Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ.
RFA photo
Đề nghị đưa Việt Nam vào lại CPC
Ỷ Lan : Thưa bà Tina Mufford, bà
là Nhà phân tích chính trị của Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (gọi tắt là
USCIRF). Uỷ ban vừa công bố bản báo cáo mang tựa đề “Tự do Tôn giáo tại Việt
Nam : Đánh giá việc đưa vào danh sách các quốc gia cần đặc biệt quan tâm (CPC)
10 năm sau khi rút tên”. Xin bà giải thích lý do viết bản báo cáo này ?
Tina Mufford : Vâng. Sau 10 năm,
chúng tôi nghĩ lúc này là cơ hội thẩm định những gì đã xẩy ra thực sự khi Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC. Điều mang ý nghĩa đặc
biệt là sự kiện Quốc hội Việt Nam vừa thông qua đạo luật về Tín ngưỡng và Tôn
giáo hồi tháng 11 năm 2016, gần đúng 10 năm sau khi Bộ Ngoại giao rút tên Việt
Nam ra khỏi danh sách CPC. Thực ra chúng tôi không biết trước việc này, nhưng
lúc này đặc biệt hợp thời để thẩm định về những gì xẩy ra 10 năm trước, đồng thời
tìm ra đường lối thực hiện ngày nay khi đạo luật được thông qua.
Ỷ Lan : Hầu như USCIRF luôn đề
nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ghi tên Việt Nam vào danh sách CPC kể cả những năm Bộ
Ngoại giao không chia sẻ quan điểm của Uỷ ban. Uỷ ban đề nghị theo tiêu chuẩn
nào ?
Tina Mufford : Bà nói đúng,
USCIRF không ngừng đề nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ghi tên Việt Nam vào danh sách
CPC hằng năm kề từ năm 2002. USCIRF đặt sự đề nghị này trên nền tảng, thứ nhất
theo tiêu chuẩn quốc tế về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, và chúng tôi nhận thấy
Việt Nam chưa bao giờ đạt tiêu chuẩn này, và thứ hai y cứ vào Đạo luật Tự do
Tôn giáo trên Thế giới của Hoa Kỳ. Đây là hai điểm chuẩn mà chúng tôi tham chiếu
mỗi năm khi tái xét tái xét tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.
Cho nên đây không phải là sự đánh
giá theo quan điểm chính trị của Hoa Kỳ, chúng tôi hoàn toàn độc lập và khách
quan trong sự xét đoán của chúng tôi. Vì vậy, mặc dù chúng tôi nhìn thấy một số
cải thiện trong vấn đề tự do tôn giáo tại Việt Nam — điều đáng khen mà tôi xin
hoan nghênh ở đây — nhưng vẫn còn tiếp diễn những vi phạm nhân quyền và tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng trầm trọng. Đó là lý do vì sao, năm này tiếp năm khác,
USCIRF tiếp tục đề nghị Bộ Ngoại giao ghi tên Việt Nam vào danh sách CPC.
Ỷ Lan : Đông người Việt Nam thất
vọng khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC năm 2006.
Bà giải thích trong bản Báo cáo rằng lý do không chỉ vì sự tiến bộ về tự do tôn
giáo, mà vì nhiều lý do khác. Bà có thể khai triển các lý do này ?
Tina Mufford : USCIRF đã nhận thấy
rất sớm những bước cải thiện nhanh chóng trong các năm 2004 đến 2006, là thời
gian Việt Nam bị đặt vào danh sách CPC. Đặc biệt, Việt Nam chịu nhượng bộ trong
các cuộc thương thảo ở cấp cao Hoa Kỳ, nên hai quốc gia đã đạt được bản Hợp đồng
qua đó Việt Nam chấp nhận thực hiện một số cải thiện cụ thể, đổi lại, Bộ Ngoại
giao sẽ rút tên Việt Nam khỏi danh sách CPC.
Đúng vậy, USCIRF nhận thấy mặc dù
còn bao nhiêu vấn đề khác, chính quyền Việt Nam có truyền thống mong muốn chấp
nhận, ở cấp cao, về các điều kiện cho tự do tôn giáo, và chúng tôi nghĩ rằng
đây là sự mở cửa cho Hoa Kỳ các các quốc gia khác muốn thu đạt lợi thế. Tuy
nhiên, thu nhận điểm tích cực, nhưng đồng thời USCIRF cần minh bạch việc cải
thiện nhỏ này chẳng kéo dài được bao lâu, và không đủ chứng minh để rút tên Việt
Nam ra khỏi danh sách CPC mau lẹ như vậy. Tiếc thay, lời cảnh báo của chúng tôi
đã thành sự thật, vì sau khi rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, tình hình
tự do tôn giáo đã suy thoái rất nhanh. Thật vô cùng thất vọng cho chúng tôi khi
thấy sự tiến bộ nhỏ nhoi vừa được hoàn tất, kể cả Hợp đồng giữa hai nước với
bao lời hứa hẹn bỗng phút chốc bị tan biến.
Thật là một điều bất hạnh. Nếu
danh sách CPC còn được kéo dài thêm, có thể là 2, 3, 4 năm, ai biết đâu sự tiến
bộ sẽ dài lâu — nếu không là vĩnh viễn tại Việt Nam.
Thực trạng tại Việt Nam
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ
tại tu viện Thanh Minh, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 7 năm 2007. AFP
photo
Ỷ Lan : Vừa qua bà cùng với phái
đoàn USCIRF đến Việt Nam để lượng giá tự do tôn giáo tại đó, gặp gỡ chính quyền
và một số nhà tôn giáo bất đồng chính kiến. Cuộc viếng thăm này có giúp cho bà
thấy rõ hơn hình ảnh tự do tôn giáo tại Việt Nam không ?
Tina Mufford : Đúng vậy, USCIRF
đã viếng thăm Việt Nam vào tháng 8 năm 2015. Một trong những cuộc gặp gỡ đầu
tiên khi chúng tôi vừa bước chân đến Tp Hồ Chí Minh, là Đức Tăng Thống Thích Quảng
Độ. Gặp gỡ ngài là một cơ hội tuyệt vời không những thu nhận nguồn thông tin về
Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, mà còn biết thêm hoàn cảnh rộng lớn về
tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Sự hiểu biết của Đức Tăng Thống về tình
hình tôn giáo và kinh nghiệm đầu tay của bản thân ngài qua một quá trình dài,
đã giúp USCIRF hiểu thấu sâu sắc trên mọi vấn đề phức tạp. Vì là những vấn đề
thực sự phức tạp, nên cuộc gặp gỡ Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ đã cho chúng
tôi nhiều hiểu biết sâu sắc và quý giá, giúp chúng tôi trong trọn chuyến viếng
thăm. Tôi cực kỳ tri ân ngài đã “tạo dựng” sự hiểu biết cho chúng tôi trong suốt
chuyến đi.
Ỷ Lan : Xin bà câu hỏi chót.
Trong phần kết luận bản Báo cáo đưa ra một số bình luận Luật mới về Tín ngưỡng
và Tôn giáo được Quốc hội Việt Nam thông qua tháng 11 vừa qua. Nay Luật mới đã
thông qua, bà có hy vọng gì cho tương lai của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng tại
Việt Nam ?
Tina Mufford : Trước hết, tôi muốn
nói rằng, có nhiều điều tích cực cần nêu về Luật mới và Luật ấy đã xẩy ra như
thế nào. Nói cho công bằng, chính quyền Việt Nam cam kết khá nghiêm trọng với
chính phủ Hoa Kỳ trong khi soạn thảo luật mới, một số cải thiện nhỏ và thay đổi
trong bộ luật là thành quả của các cuộc thương lượng này. Dù vậy, Luật mới là một
văn kiện không hoàn hảo. Luật mới không đạt các tiêu chuẩn quốc tế trong mọi ý
nghĩa của nó. Đương nhiên, những điều viết lên mặt giấy là một chuyện — cuộc thử
thách thực sự sẽ bắt đầu từ khi có hiệu lực vào ngày 1 tháng giêng năm tới.
Chúng ta cần nhìn vào những Sắc lệnh Cải tiến, vì chưa ai rõ bằng cách nào
Chính quyền muốn cải thiện Luật trên diện rộng.
Đây là điều rất quan trọng, như
chúng ta đã thấy có một số cộng đồng tôn giáo được quyền hành đạo, nhưng những
nơi khác tuyệt đối chẳng có tự do, mà đa số lỗi vì cán bộ địa phương. Không phải
riêng chuyện nhân dân không có tự do hành đạo, mà họ còn bị sách nhiễu, hăm doạ,
bị công an địa phương bắt bớ, hay bị hành xử bạo động, bị cán bộ công an đánh đập
hoặc thuê bọn côn đồ hành hung.
Đây là thực tế của vấn đề, và
chính quyền Việt Nam cần tìm cách giải quyết — chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ và
khuyến khích thực hiện — để cải thiện Luật mới ở mọi cấp, như vậy bất cứ ai từ
chính quyền trung ương xuống cấp dưới, đều có cùng viễn kiến nhằm thăng tiến và
tôn trọng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng cho mọi tín đồ, hay cho những ai không
có niềm tin tôn giáo.
Có một thành ngữ nói rằng, “qua
thử thách mới biết dở hay”, và chúng ta cần theo dõi sự cải tiến, không phải những
gì xẩy ra trong năm tới mà những năm tiếp theo. Cần nhiều thời gian trước khi
thấy rõ tác dụng — tốt hay xấu — của bộ Luật mới này.
Đây là lý do vì sao kỳ niệm 10
năm được rút tên khỏi danh sách CPC, như chúng tôi đã biện luận trước đây, rằng
cần đặt vào danh sách CPC khá lâu trước khi thấy được sự cải thiện. Ngày nay
tôi vẫn có cùng biện luận — rằng chúng ta cần Luật mới này hiện hữu một thời
gian trước khi chúng ta có thể thực sự đánh giá tôn giáo cho mỗi cá nhân và tôn
giáo của các cộng đồng trong toàn quốc. Sẽ là lý tưởng nếu chúng ta nhận ra một
số cải tiến, nhưng sẽ không thể tha thứ cho bất cứ sự dung dưỡng hay vi phạm tự
do tôn giáo nào đến từ chính quyền hay ai khác. Chúng ta đang có một việc làm
dài hơi trước mặt, chúng ta cần cảnh giác, theo dõi và đánh giá những diễn biến
tại Việt nam xem có đạt tiêu chuẩn quốc tế hay không.
Ỷ Lan : Xin cám ơn bà Tina
Mufford.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét