Hình: Internet
Ông Hồ, lúc sinh thời, có câu
nói nổi tiếng về vai trò quan trọng của Giáo dục “Vì lợi ích 10 năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Câu nói này cũng như
nhiều câu khác của ông, về sau, bị người ta phát hiện là của những
bậc vĩ nhân khác. Ở đây, ông Hồ đã mượn lời của Quản Trọng – một
nhà chính trị và tư tưởng bên Tàu, trong sách Quản Tử, Quyền Tu, trang
53, có ghi “Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc; thập niên chi kế mạc như thụ mộc;
chung thân chi kế mạc như thụ nhân”.
Có lẽ, ông Hồ không có thói
quen trích dẫn nguồn gốc những tác phẩm mình tham khảo, mà đáng
nhẽ, một người trí thức biết tự trọng cần phải nắm rõ và tuân
thủ. Chẳng thế mà ông đem nguyên cả tập thơ Ngục trung nhật ký của
một người bạn tù cùng phòng, đã chết, làm như sáng tác của mình,
để rồi tha hồ cho đám “con dân” tung hô ông là “danh nhân văn hóa UNESCO”
mà hỏi ra thì ngay cả cái ủy ban này không biết chuyện ông Hồ trở
thành “danh nhân văn hóa” từ lúc nào.
Hồi đó, thật may cho ông Hồ
là chưa có luật bản quyền. Được chế độ suy tôn là “cha già dân tộc”,
việc ông Hồ “đạo văn”, có lẽ, đã tạo ra “tấm gương sáng” cho những
thế hệ “trồng người” sau này. Những sản phẩm “vừa hồng vừa chuyên”
của sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa “bốn lần vinh quang” của
đảng CSVN, quả thực, đã và đang đưa nền giáo dục nước nhà lên một
“tầm cao mới” về sự gian dối, vô sỉ.
Câu chuyện thi cử ở Hà Giang
đang dấy lên làn sóng phẫn nộ của cả xã hội khi 114 thí sinh với 330
bài thi, hầu hết có nguyện vọng vào các trường công an, quân đội,
được nâng điểm để trở thành thủ khoa của các trường đại học danh
giá nhất Việt Nam. Công luận thì sôi sùng sục, nhưng quan chức bộ giáo
dục thì cứ như không.
Ông giám đốc Sở giáo dục Hà
Giang trả lời báo chí tỉnh queo “chuyện này không có gì quá đặc
biệt” và ông Bộ trưởng Nhạ sau một hồi im thít cũng “níu no” trên
nghị trường là “đề thi năm nay nhẹ nhàng, học sinh làm tốt” và “sai
phạm Hà Giang chỉ là lỗi cá nhân”. Không những thế, ông Nhạ còn được
văn phòng chính phủ có công văn khen ngợi khi đã phát hiện sớm “sai
phạm” ở Hà Giang. Trong khi, lần lượt các tỉnh thành như Sơn La, Lạng
Sơn, Hòa Bình, bến Tre, Bạc Liêu… cũng đang bị điều tra bởi nghi vấn
gian lận và yêu cầu chấm thẩm định. Không rõ vụ này, dù được văn
phòng chính phủ của anh Phúc “bảo kê”, ông Nhạ liệu có “sóng yên, bể
lặng” được không?
Thực ra, ông giám đốc Sở giáo
dục Hà Giang hoàn toàn có lý khi cho rằng “chuyện không có gì quá
đặc biệt”; bởi vì sự gian dối trong bằng cấp, thi cử ở xứ này là
“chuyện thường ngày ở huyện”. Chẳng phải phần lớn quan chức từ cấp
cao nhất cho đến cấp thấp nhất ở chính quyền đang xài bằng giả,
bằng đểu, khai man lý lịch hay sao?
Xét cho cùng thì việc gian
lận ở kỳ thi tốt nghiệp 2018, nếu so với sự gian lận bằng cấp của
các quan chức đang tại vị, hẳn nhiên, là chuyện quá đỗi bình thường.
Điều không bình thường ở chỗ, là mấy tỉnh thành miền núi này với
số điểm cộng ưu tiên khu vực đã chiếm hầu hết suất vào các trường
đại học khối an ninh, quân đội mà con cái quan chức Hà Nội dù có
đạt điểm tối đa cũng không thể nào chen chân nổi. Hơn ½ số thí sinh
khối A1 có điểm cao chót vót đều ở Hà Giang và chưa kể tới Lạng
sơn, Hòa Bình, Bạc Liêu…
Nếu tính với “thời giá”
khoảng 10 năm trước cho một suất vào học viện an ninh hay quân y… những
“trường thơm” của khối quân đội đã có giá 500 triệu đồng. Con số 330
thí sinh được nâng điểm ở Hà Giang quả là một “miếng lớn” mà các
quan chức sở giáo dục, Hà Giang đã “đớp” quá đà mà quên mất “quan trên
nhắm xuống, người ta trông vào”. Nhẽ nào, con cái các “quan bác” ở
Hà Nội lại thua kém con mấy anh quan hàng huyện ở cái xứ “tọc” Mù
Căng Chải?
Cái sự học của người Việt
bấy lâu thường xuất phát từ mong muốn tiến thân bằng con đường thi cử
để sau này làm quan. Học hết phổ thông rồi, phải lên đại học, học
xong đại học rồi phải có bằng thạc sĩ, tiến sỹ mới oai, mới đủ
tiêu chuẩn lãnh đạo. Chẳng ở đâu mà ngay cả nhân viên cấp phường, cấp
xã cũng có bằng tiến sĩ nhan nhản như lợn con.
Mấy trăm ngàn giáo sư, tiến
sĩ mà số bằng cấp phát minh thì thua cả xứ Lào, xứ Cam. Nền khoa
học công nghệ dù đang “quá độ” lên 4.0 không làm nổi cái đinh ốc vít
đúng tiêu chuẩn cho mấy công ty của xứ “giãy chết” như Samsung. Hơn 90
triệu dân không có nổi chục bài báo khoa học được đăng trên những tạp
chí uy tín trên thế giới mỗi năm.
Mới đây, được biết, Việt Nam
có tiến sĩ chuyên ngành quần vợt. Những tưởng, câu chuyện về Xuân
Tóc Đỏ được phong hàm “giáo sư quần vợt” chỉ có trong Số Đỏ của ông
Vũ Trọng Phụng. Hóa ra, những “Xuân tóc đỏ” đời thật với tấm bằng
đỏ Tiến sĩ, giáo sư đang được sản sinh ra với tốc độ của loài sán
lãi dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng CSVN. Đúng là thời đại
“rực rỡ” của những thứ đểu giả lên ngôi.
Vậy thì, chuyện mấy đứa học
trò ở Hà Giang, Lạng Sơn… được bố mẹ đút tiền chạy điểm, mua điểm,
chẳng phải là để “phát huy truyền thống gia đình”, rồi sau này “con
cái lãnh đạo làm lãnh đạo là hồng phúc của dân tộc” như lời bà
Nguyễn Thị Quyết Tâm hay sao?
Trong một cuộc họp quốc hội
gần đây, bà trưởng ban dân nguyện Nguyễn Thanh Hải chất vấn ông Bộ
trưởng Nhạ “Triết lý giáo dục của Việt Nam là gì?”. Ông Nhạ ấp úng
như gà mắc tóc, được bà Chủ tịch quốc hội đỡ lời bằng một gợi ý
rằng bộ giáo dục cần “tổ chức hội thảo để tìm ra câu trả lời”.
Triết lý giáo dục hay nguyên tắc cơ bản của ngành “trồng người”,
quyết định tương lai và vận mệnh của dân tộc mà những kẻ đứng đầu
quốc gia không biết nó “mô tê răng rứa”. Thật vừa khôi hài, vừa thảm
hại.
Cũng giống như Nguyễn Phú
Trọng vẫn kiên định dẫn dắt Việt Nam theo đường lối Mác Lê để xây
dựng một thứ xã hội mà chính bản thân ông “không biết hết thế kỷ
này, đã có chủ nghĩa xã hội thực sự ở VN hay chưa”. Sự mê muội đó,
cùng với lòng tham khôn cùng và thói gian manh bần cố nông từ sâu
trong tiềm thức của người cộng sản, đã làm cho chính trị quốc gia
bại hoại tận gốc rễ. Một xã hội mà chính trị tha hóa thì còn cái
gì mà không hủ bại theo?
Có thể nói, giáo dục Việt
Nam chưa bao giờ nhầy nhụa và tệ hại như ngày hôm nay. Năng suất lao động
người Việt thấp nhất trong khu vực Châu Á, bằng cấp Việt Nam không
được bất cứ quốc gia nào công nhận, và trình độ khoa học, kỹ thuật
thuộc nhóm các quốc gia kém phát triển nhất. Mỗi năm người Việt
phải chi khoảng 4-5 tỷ USD để cho con cái du học. Hàng ngàn tỷ đồng
như “nước đổ hang chuột” để “cải tiến, cải lùi” cái hệ thống “trồng
người” nát như tương bởi những bê bối từ đạo đức, trình độ người
thày cho đến tệ tham nhũng, bạo hành, xâm hại tình dục học đường
tràn lan…
Tài tình ở chỗ, là chẳng ai
chịu trách nhiệm cho những thứ tệ nạn, tội ác cứ nghiễm nhiên diễn
ra hàng ngày và mỗi năm hàng trăm ngàn cử nhân, thạc sĩ “ra lò” và…
thất nghiệp. Một nền giáo dục “mù”, không triết lý, gian dối và
hình thức, coi trọng bằng cấp, bị chính trị hóa nhằm phục vụ cho
lợi ích của giới cầm quyền, đã sản sinh ra những thế hệ khuyết tật
cả về nhân cách lẫn tri thức. Thậm chí, một kẻ đứng đầu bộ ngành
như ông Nhạ cũng là một sản phẩm què quặt, hủ bại từ trong tiềm
thức, tiêu biểu cho một hệ thống đã tha hóa, mục ruỗng từ lâu.
Nếu nhìn lại hơn 100 năm
trước, những nhân sĩ tri thức dấn thân cho công cuộc khai sáng dân tộc
như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu với con đường “khai dân trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh” bằng việc học tập những tiến bộ văn minh của các
nước phát triển bằng đường lối giáo dục “thực học, thực dụng, thực
nghiệp”, đã đưa Việt Nam, lần đầu tiên, hội nhập với thế giới văn
minh qua phong trào Đông Du mà hạt nhân của nó là Đông Kinh Nghĩa Thục.
Cách đây 43 năm, nền giáo dục của VNCH với triết lý và nguyên tắc
“Nhân Bản, Khai Phóng và Dân Tộc” tuy được hình thành và phát triển
trong một thời gian ngắn ngủi cùng với nền Cộng hòa non trẻ nhưng đã
để lại những dấu ấn vô cùng ấn tượng.
Những lớp tri thức và thế
hệ được thụ hưởng nền giáo dục đó đã xây dựng lên không chỉ là một
“hòn ngọc viễn đông” hoa lệ, thịnh vượng mà những di sản văn hóa
thẫm đẫm bản sắc dân tộc, nhân văn nhưng không kém phần hiện đại, văn
minh vẫn chứng tỏ sức sống bền bỉ với thời gian và sức phá hoại
tàn khốc của người Cộng sản. Nền văn học, thi ca, kiến trúc, khoa
học kỹ thuật, thể thao văn hóa phát triển bậc nhất Châu á khiến cho
những Singapore, Nhật Bản, Thailand khi đó phải ngưỡng mộ và lấy làm
hình mẫu phát triển.
Văn hóa là hồn cốt của một
dân tộc, quyết định tương lai, vận mệnh của dân tộc đó. Giáo dục là
con đường duy nhất có thể đụng tới sâu thẳm những giá trị văn hóa
ẩn sâu trong tâm hồn một dân tộc. Giáo dục cũng là cách thức duy nhất
có thể cải tạo văn hóa theo hướng tốt hơn hoặc tha hóa nó, tùy theo
đường lối chánh trị của thể chế cầm quyền. Những gì mà người ta
thấy ở nền giáo dục Việt Nam hôm nay, là một quá trình tha hóa có
hệ thống và chủ đích của những kẻ đốn mạt, ngu xuẩn, không có lương
tri và liêm sỉ. Thứ sản phẩm mà hệ thống này muốn tạo ra là những
giống loài chỉ biết “còn Đảng, còn mình” cùng những ham muốn bản
năng tầm thường được cổ xúy để chi phối mọi suy nghĩ và hành động.
Câu chuyện sai phạm nghiêm
trọng của ngành giáo dục ở Hà Giang, Lạng Sơn, Hòa Bình, Bạc Liêu…
cũng chỉ là hệ quả tất yếu của một hệ thống đã tha hóa tận cùng.
Chừng nào nền chính trị quốc dân còn nằm trong tay những kẻ đốn
mạt, những kẻ vô lương vẫn dương dương tự đắc làm “thày thiên hạ”,
thì những câu chuyện như ở Hà Giang vẫn tiếp diễn và tương lai của
dân tộc này chẳng khác nào cái tiền đồ nhà chị Dậu.
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét