Trong những ngày đầu tháng Chín mỗi năm, câu chuyện Hồ Chí Minh “phát khóc” khi đọc Sơ Thảo Lần Thứ Nhất Những Luận Cương Về Vấn Đề Dân Tộc Và Vấn Đề Thuộc Địa của Lenin được nhắc đi nhắc lại như là một bí kíp trong đó tiết lộ con đường dẫn đến “độc lập, tự do, hạnh phúc” cho dân tộc Việt.
Ngày 22 tháng 4, 1960, Hồ Chí Minh cũng nhắc lại trên báo Nhân Dân: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng
biết bao? Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị
đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta!”
Mới đọc câu văn đó của Hồ Chí Minh, nhiều người dễ lầm tưởng mục đích
tối hậu của Lenin là giúp cho các nước thuộc địa giải phóng dân tộc của
họ.
Không phải.
Lenin chẳng hề thương xót gì số phận của các dân tộc đang chịu đựng dưới gót giày thực dân.
Sau Cách mạng CS Nga 1917, Liên Xô, nhà nước CS đầu tiên đang trong tình
trạng bị bao vây. Để giải tỏa áp lực, Lenin nghĩ đến chiếc lược xuất
cảng cách mạng CS đến các quốc gia khác. Lenin thực hiện âm mưu quân sự
hóa các đảng CS châu Âu như Đức, Hungary v.v… Ngoài ra, ông ta còn nhắm
đến các nước thuộc địa và dùng xương máu họ như những bàn đạp, phên dậu,
tiền đồn chống lại khối dân chủ tư bản.
Bản tiếng Anh luận cương của Lenin có tựa đề “Draft Theses on National and Colonial Questions For The Second Congress Of The Communist International”
được Lenin soạn vào ngày 5 tháng 6, 1920 gồm 12 điểm chính. Văn bản
được in trong Tuyển Tập Lenin do nhà xuất bản Tiến Bộ in tại Moscow
1965, các trang 144-151.
Trong dự thảo bảy trang này, Lenin dùng phần lớn phân tích điều kiện
chính trị châu Âu và sự phản bội của những người CS mang tư tưởng nước
lớn đã ủng hộ chiến tranh trong Thế chiến Thứ Nhất (1914-1918).
Ngoài ra, Lenin cũng nhấn mạnh đến sự liên minh giữa tầng lớp vô sản và
quần chúng lao động tại các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chung để
lật đổ thành phần địa chủ và tư sản. Trong đoạn thứ 5 của tiêu đề 5,
Lenin cho rằng Quốc Tế CS nên ủng hộ các phong trào dân chủ tư sản với
điều kiện vẫn giữ các đặc tính CS độc lập mà không bị hòa hợp vào các
phong trào này.
Ngày 19 tháng Bảy, 1920, trong Báo Cáo Về Tình Hình Quốc Tế Và Nhiệm
Vụ Căn Bản của Quốc Tế CS (Report On The International Situation And The
Fundamental Tasks Of The Communist International) đọc trước Hội
Nghị Lần Thứ Hai của Đệ Tam Quốc Tế, Lenin lần nữa nhấn mạnh đến sự liên
minh giữa giai cấp vô sản và quần chúng tại các nước thuộc địa trong
cuộc đấu tranh chống “Chủ nghĩa đế quốc”.
Sự liên minh giữa các đảng chính trị trong cuộc đấu tranh chung, lẽ ra
không phải là một vấn đề mà còn là điều đáng khuyến khích. Tuy nhiên,
với đảng CS, mục tiêu không dừng dại ở điểm giành độc lập mà là đưa đất
nước vào chế độ độc tài toàn trị CS.
Nguyễn Tấn Hưng, trong tạp chí Triết Học, tháng 9 2007, tóm tắt nội dung
chính trong Sơ Thảo Luận Cương Lenin theo quan điểm của đảng CSVN:
“Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc là một
phạm trù của cuộc cách mạng vô sản, vì vậy những người cộng sản phải ủng
hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, rằng, với sự giúp đỡ của giai
cấp vô sản các nước tiên tiến, giai cấp vô sản ở các nước chậm tiến,
sau khi hoàn thành nhiệm vụ dân tộc dân chủ có thể tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.”
Theo nội dung đó, luận cương chỉ ra hai giai đoạn không tách rời: (1)
giải phóng dân tộc và (2) tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiền đề của chủ
nghĩa CS, không thông qua chủ nghĩa tư bản.
Lý luận này cũng được giải thích phù hợp với quan điểm đột biến của triết học duy vật biện chứng của Friedrich Engels.
Tai họa cho Việt Nam cũng bắt đầu từ lý luận không tưởng và mang tính áp đặt đó.
Nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm
1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4
cùng năm, ghi rõ: "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách
mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế
quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày
có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN vừa rồi cũng lần nữa khẳng định "Ngay
khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là
yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam."
Mục đích “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đã trở thành kim chỉ nam cho hầu hết các chiến lược và chính sách của đảng CSVN.
Qua gần một thế kỷ với bao nhiêu lớp vỏ, bao nhiêu chiêu bài, mục đích
nhuộm đỏ VN không hề thay đổi. Mục đích đó là một bộ phận trong chủ
trương bành trướng chủ nghĩa CS của Mao tại Đông Nam Á Châu dẫn đến việc
Trung Cộng chiếm Hoàng Sa và một phần lớn Trường Sa.
Bản chất của cuộc chiến Việt Nam ngay từ ngày 19 tháng 7, 1920, khai mạc
Quốc Tế CS tại Moscow cho tới nay đã xác định cuộc chiến Việt Nam là
cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa CS và Tự Do. Đó không phải kết án mà
khẳng định, không chỉ từ những người quốc gia, dân chủ mà cả đảng CS
cũng không phủ nhận mục đích tối hậu của họ là CS hóa Việt Nam.
Pháp là đế quốc thực dân hàng thứ hai thế giới chỉ sau Anh, nhưng ngày
nay, tất cả nước cựu thuộc địa Pháp đều được độc lập, tư do và dân chủ
tại các mức độ khác nhau. Việt Nam là quốc gia duy nhất còn chịu đựng
độc tài và lạc hậu cũng chỉ vì Luận Cương Dân Tộc Và Thuộc Địa mà Hồ Chí
Minh mang về. Nếu không có Hồ và không có luận cương của Lenin, Việt
Nam, một quốc gia phong phú tài nguyên và dân số, ngày nay đã một quốc
gia thống nhất và hiện đại hàng đầu Á Châu.
Bộ máy tuyên truyền của đảng lý luận rằng không có đảng CS, Việt Nam làm
gì có được thống nhất, độc lập, tự do. Lý luận trẻ con nhưng không ít
người tin. Trên con đường máu nhuộm, từ khi viên đại bác của Rigault de
Genouilly bắn vào Sơn Chà, Đà Nẵng sáng ngày 1 tháng 9, 1859 cho tới hôm
nay, nhiều triệu người Việt đã hy sinh vì độc lập tự do dân tộc.
Bao nhiêu phong trào yêu nước và đảng phái đã lần lượt ra đời. Phong
Trào Cần Vương, Phong Trào Văn Thân, Phong trào Đông Du, Phong trào Duy
Tân, Việt Nam Quang Phục Hội, Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân
Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính, Dân Xã Đảng, Đảng Lập
hiến, Đại Việt Duy dân và nhiều tổ chức, phong trào không Cộng sản
khác. Họ thành công và thất bại. Họ hy sinh trong công khai và chết
trong âm thầm. Những Nguyễn Trung Trực, Trương Công Định, Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, Tôn Thất Thuyết, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Trần Quý Cáp, Nguyễn An Ninh và vô số anh hùng dân tộc đã ngã xuống.
Xương máu họ đọng thành những viên gạch vô cùng rắn chắc lót đường cho
thế hệ sau tiến bước.
Đảng CS chỉ là một nhóm rất nhỏ, và chỉ ra đời vào tháng 3, 1930. Cộng
Sản thắng chỉ vì họ có mục đích thống trị rõ ràng, dứt khoát, kiên trì
và bất chấp mọi phương tiện dù phi nhân và sắt máu bao nhiêu để hoàn
thành mục tiêu đã vạch ra. Các chính sách của đảng từ 1975 đến nay một
lần nữa chứng minh điều đó.
Đánh giá cuộc chiến Việt Nam phải bắt đầu từ cội nguồn của cuộc tranh
chấp thay vì từ những hậu quả hay các hình thức tham gia của các bên
liên hệ.
Chủ nghĩa CS đã sụp đổ trên phạm vi thế giới. Tại Việt Nam, mục tiêu CS
chỉ còn trong sách vở nhưng hai phương tiện mà đảng CS dùng là tuyên
truyền tẩy não và bạo lực trấn áp vẫn đang ngày đêm áp dụng. Tháo gỡ cơ
chế CS với hai phương tiện giết người độc hại đó trở thành mục tiêu đầu
tiên của tất cả các lực lượng yêu nước trong tiến trình cách mạng dân
chủ và phục hưng toàn diện Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét