Gánh nặng nợ công
Bộ Tài Chính
hồi hạ tuần tháng 9 thông báo nợ công của Việt Nam chiếm 61% Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), tính đến cuối năm 2015 và dự báo đỉnh nợ công sẽ
xấp xỉ ở mức 65% GDP vào thời điểm 2017-2018.
Theo số liệu về quyết toán ngân sách nhà nước tính đến cuối năm 2015, Ủy ban thường vụ quốc hội hồi trung tuần tháng 5 công bố nợ công của Việt Nam vào khoảng 363 tỷ đô la Mỹ (USD), chiếm đến 61% GDP, trong đó dư nợ Chính phủ đã chạm trần 50% GDP.
Căn cứ theo số
liệu vừa nêu, Bộ Tài Chính trong tháng 9 thông báo Chính phủ Việt Nam
mắc nợ trị giá gần 94,3 tỷ USD; bao gồm 39,6 tỷ vay của nước ngoài và
phần còn lại là vay trong nước. Bộ Tài Chính còn cho biết nợ Chính phủ
bảo lãnh gần 21 tỷ USD, trong đó vay của nước ngoài hơn 11,3 tỷ. Bộ
trưởng Bộ Tài Chính Đinh Tiến Dũng cho rằng đây là một trong những áp
lực đối với nợ công và trách nhiệm trả nợ của Chính phủ đè nặng lên ngân
sách eo hẹp của Việt Nam, trong xu hướng nợ công được dự báo sẽ đạt
đỉnh xấp xỉ ở mức 65% GDP vào thời điểm 2017-2018.
Vấn đề được
Chính phủ cũng như giới chuyên môn quan tâm là nợ công của Việt Nam được
tái cơ cấu như thế nào để luôn ở ngưỡng an toàn cũng như Việt Nam cần
làm gì để có khả năng trả nợ trong bối cảnh thiếu nguồn vốn cho phát
triển kinh tế giai đoạn đến năm 2035?
Truyền thông
trong nước dẫn lời của Chuyên gia cao cấp Cao Viết Sinh rằng theo nhận
định của ông thì áp lực nợ công và trả nợ của Việt Nam hiện tại không
nằm ở các khỏan vay nước ngoài dài hạn với lãi suất thấp, mà nằm ở các
khỏan vay ngắn hạn ở trong nước. Theo tính toán của giới chuyên gia,
Chính phủ hàng năm phải chi trả khoảng 14% tổng số nợ Chính phủ vay và
nợ Chính phủ bảo lãnh.
Một số các
chuyên gia mà Đài RFA tiếp xúc cho rằng Việt Nam đang loay hoay trong
mối tương quan giữa vay vốn để phát triển và vì sử dụng các nguồn vốn
vay không đạt hiệu quả nên dẫn đến trở thành một trong những quốc gia có
tỉ lệ nợ công tăng nhanh nhất, theo báo cáo của Ngân hàng Thế
giới-World Bank; mà nếu không tiếp tục vay thì làm sao phục vụ cho phát
triển và trả nợ.
Trong vòng suốt
20 năm, tính từ 2005 đến 2015, Việt Nam nhận được hỗ trợ từ nguồn vốn
ODA dưới ba hình thức chủ yếu gồm nguồn vốn viện trợ không hoàn lại,
chiếm khoản 10-12%; nguồn vốn vay ưu đãi, chiếm đến 80% và vốn hỗn hợp
chiếm 8-10%. Theo thống kê, từ năm 1993 đến năm 2014, tổng giá trị vốn
ODA cam kết cho Việt Nam lên đến con số gần 90 tỷ USD. Tuy nhiên, Chính
phủ Việt Nam thừa nhận vẫn còn nhiều dự án sử dụng các nguồn vốn ODA
chưa hiệu quả, điển hình như 4 dự án đường sắt đô thị tại thủ đô Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh chậm trễ nghiêm trọng hay dự án Đại lộ Đông-Tây
là một trong những đại án tham nhũng gây rúng động trong dư luận.
Thời gian sắp
tới, Bộ Kế hoạch-Đầu tư dự trù Việt Nam cần phải huy động khoảng 39,5 tỷ
USD vốn ODA và vốn vay ưu đãi để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển đến
năm 2020. Trong khi đó, thời điểm cuối năm 2017, Việt Nam không còn được
vay vốn ODA từ Ngân hàng Thế giới-World Bank nữa. Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB) có thể cũng sẽ ngừng cung cấp các khoản vay ưu đãi đối với
Việt Nam. Các quốc gia Châu Âu, bao gồm Anh, Phần Lan và Na Uy cũng
thông báo sẽ dừng cấp vốn hay cắt giảm dần vốn ODA cho Việt Nam đến năm
2020.
Trả nợ bằng cách nào?
Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc gặp gỡ Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại
Việt Nam, ông Ousmane Dione, chiều ngày 20/09/2017 tại Hà Nội. Courtesy: Chinhphu.vn
Trước tình hình
bế tắc về nguồn vốn để đầu tư và phát triển cũng như nợ công của Việt
Nam ngày càng tăng, các chuyên gia cho rằng việc đi vay với lãi suất thị
trường để chi tiêu thì không phải là giải pháp tốt cho Việt Nam. Các
chuyên gia đề nghị một trong những biện pháp cần thiết quan trọng là
Chính phủ Việt Nam phải ưu tiên giảm chi ngân sách, để có thêm tiền chi
cho đầu tư thì khi đó áp lực đi vay và trả nợ sẽ vơi bớt phần nào. Tuy
nhiên, theo Tiến sĩ Vũ Quang Việt, một cựu chuyên viên thuộc Cục Thống kê Liên Hiệp Quốc nhận định đây là một thách thức lớn đối Hà Nội:
“Số liệu
trong nước thì họ cố giấu nên không thể biết rõ ràng được. Nhưng theo
cách tính của tôi thì Việt Nam chi tiêu cho vấn đề an ninh quốc gia
chiếm đến 21% ngân sách. Mức chi tiêu như thế là cực kỳ lớn và chi nhiều
nhất 12% cho công an, hơn cả quân đội nữa. Với mức chi như vậy và còn
tiếp tục tăng cao thì có cách gì mà giải quyết được?”
Liên quan thông
tin đại diện của Ngân hàng Thế giới-World Bank, tại một hội thảo quốc
tế được tổ chức ở Hà Nội vào hôm 26 tháng 9 vừa qua, cam kết giúp Việt
Nam đẩy mạnh tiến độ giải quyết nợ xấu, các khỏan vay không hoạt động
trong hệ thống ngân hàng để đảm bảo việc phân phối vốn hiệu quả cho phát
triển kinh tế; trả lời câu hỏi của chúng tôi rằng liệu World Bank hay
các tổ chức tài chính quốc tế sẽ can thiệp trực tiếp để giải quyết hay
không, Tiến sĩ Vũ Quang Việt cho biết những tổ chức này chỉ đưa ra các
giải pháp cho Việt Nam nên làm, nhưng Việt Nam nghe theo hay không là
lựa chọn của họ. Cựu chuyên viên của Liên Hiệp Quốc trưng dẫn trường
hợp Tổ chức Tiền tệ Quốc tế (IMF) một khi can thiệp trực tếp thì sẽ kèm
theo rất nhiều điều kiện đối với quốc gia mà tổ chức này giúp đỡ:
“IMF từ xưa
giờ có chương trình giải quyết giúp đỡ là khi có một quốc gia nào mất
khả năng trả nợ nước ngoài. Việt Nam chưa phải nằm trong tình trạng đó.
Nếu như mất khả năng trả nợ nước ngoài thì IMF có thể cho vay tiền để
trả nợ kèm theo các điều kiện như đòi hỏi phải cắt ngân sách nhà nước,
đòi hỏi phải cắt chi tiêu, đòi hỏi phải tăng thuế…Nghĩa là đòi hỏi rất
nhiều thứ và còn đưa ra chương trình hàng năm phải xém xét sổ sách v.v.
Từ sau năm 1975 đến giờ, Việt Nam chưa bao giờ bị rơi vào tình trạng
này.”
Từ trong nước,
Tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng lên tiếng Việt Nam cần phải nhanh chóng
cải cách thể chế như Chính phủ Hà Nội từng tuyên bố, mà ông gọi là “cải
cách chính thể”. Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nêu lên Chính phủ Việt Nam cần
tiến hành bốn bước quan trọng:
“Thứ nhất là
phải minh bạch. Làm gì thì làm nhưng phải minh bạch, đặc biệt là vấn đề
tài chính ngân sách. Thứ hai là không được làm nhái những sản phẩm của
nước ngoài, có nghĩa là phải tôn trọng quyền sở hữu của người ta. Thứ ba
nữa là phải tạo ra cạnh tranh bình đẳng giữa khối doanh nghiệp tư nhân
với khối doanh nghiệp nhà nước, không ưu tiên doanh nghiệp nhà nước mà
đặc biệt trong bối cảnh doanh nghiệp nhà nước quá kém hiệu quả. Thứ tư
là phải chống tham nhũng. Cho đến giờ việc chống tham nhũng quá chậm
lụt.”
Bên cạnh đó,
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng còn đề nghị Chính phủ Việt Nam bắt buộc phải cải
cách chính trị như bỏ cơ chế sở hữu toàn dân về đất đai, ban hành các
luật định về tự do lập hội, tự do truyền thông cũng như tích cực hơn
trong việc cải thiện tình hình nhân quyền ở trong nước. Ông Phạm Chí
Dũng nhấn mạnh chỉ khi nào Việt Nam đạt được sự thay đổi như thế thì mới
đáp ứng đủ tiêu chí của kinh tế thị trường được quốc tế công nhận.
Đài Á Châu Tự
Do ghi nhận ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, một chuyên gia tài
chính-ngân hàng độc lập, cho rằng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong hạ
tuần tháng 9 đề nghị World Bank tìm các nguồn tại trợ với những khỏan
vay không hoàn lại giúp cho giai đoạn phát triển quốc gia đến năm 2035
trong bối cảnh nợ công chạm đỉnh ở ngưỡng 65% GDP là điều hợp lý. Tuy
nhiên, một số chuyên gia đánh giá trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam
và tình hình khó khăn chung của các quốc gia trên thế giới thì Chính phủ
Hà Nội sẽ khó có thể tiếp cận nguồn vốn vay không hoàn lại, như quan
điểm của Tiến sĩ Vũ Quang Việt rằng“Không ai cho không Việt Nam bây giờ nữa. Trừ trường hợp Trung Quốc may ra cho không”. Và
không chỉ giới chuyên gia mà cả dân chúng tại Việt Nam đều tin rằng
người bạn láng giềng “4 tốt-16 chữ vàng” cũng sẽ kèm theo những yêu sách
một khi Trung Quốc thực hiện nghĩa cử cao đẹp tài trợ không hoàn lại
cho Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét