Câu hỏi không còn là liệu hai nước,
đặc biệt là Campuchia, có nên tiếp tục dính dáng với Trung Quốc nữa hay không,
vấn đề đặt ra là làm thế nào để sống chung và đối phó với các “hậu quả” kinh tế-xã
hội của sự phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc về thương mại, đầu tư và viện trợ
tài chính.
Tóm tắt
•Chính phủ Lào và Campuchia đã
quyết định dựa vào Trung Quốc để có thể phát triển nhanh chóng. Trọng tâm của họ
lúc này là giải quyết các hậu quả kinh tế-xã hội của sự phụ thuộc nặng nề vào
Trung Quốc về đầu tư và viện trợ tài chính.
•Nguy cơ của sự phụ thuộc quá mức
vào Trung Quốc dường như thấp hơn tương đối ở Lào, do nước này có thể liên kết
với Việt Nam. Mặt khác, Campuchia có vẻ thoải mái hơn khi dựa vào Trung Quốc.
•Việc đón nhận sự hiện diện ngày
càng tăng của Trung Quốc ở cấp chính phủ đã diễn ra rất tích cực ở Lào và
Campuchia.
•Sự lo ngại và oán giận của công
chúng đối với sự hiện diện ngày càng tăng của Trung Quốc ở Lào không mấy rõ
ràng do sự kiểm soát chính trị chặt chẽ hơn đối với xã hội nước này, nhưng điều
đó không phải là hoàn toàn không có. Ở Campuchia, những tình cảm này dễ bộc lộ
và lan rộng hơn.
•Nguy cơ tương đối thấp về hậu quả
chính trị trong nước ở Lào và Campuchia đồng nghĩa với việc họ gần như không gặp
trở ngại nào để được xác định là các nước lệ thuộc về kinh tế vào Trung Quốc
Giới thiệu
Quan hệ gần gũi của Lào và
Campuchia với Trung Quốc gắn với khả năng của Trung Quốc đưa ra các ưu đãi kinh
tế để đáp ứng nhu cầu phát triển của họ. Đổi lại, họ đóng vai trò như một hành
lang địa lý chiến lược và “tự nhiên” cho dòng đầu tư, hàng hóa và con người của
Trung Quốc từ Vân Nam tới Vịnh Thái Lan. Thật vậy, trong năm 2011, Chính phủ
Trung Quốc đã xác định rõ Vân Nam là một “đầu cầu” để thâm nhập về kinh tế vào
khu vực Đông Nam Á. Khuôn khổ bao trùm mới nhất là Sáng kiến “Vành đai và Con
đường” (BRI) đang phát triển, trong đó xác định Lào và Campuchia là các nút
quan trọng trong “Hành lang bán đảo Đông Dương” với những hứa hẹn mang lại nhiều
phúc lợi kinh tế và phát triển hơn. Ở Lào, quy mô của các dự án BRI được minh họa
bằng dự án đường sắt cao tốc (HSR) với chi phí 6,8 tỷ USD, bằng khoảng 1/2 GDP
năm 2015 của nước này là 12,3 tỷ USD. Tuyến đường dài 417 km từ biên giới Trung
Quốc tới Viêng Chăn sẽ đi qua 154 cây cầu và 76 đường hầm, và cuối cùng là một
phần của tuyến đường sắt xương sống chạy từ Côn Minh tới Singapore. Campuchia vẫn
chưa có một dự án BRI trọng điểm tương tự như HSR, nhưng Chính phủ Campuchia đã
ký bản “Đề cương về kế hoạch hợp tác song phương cùng xây dựng Vành đai kinh tế
Con đường tơ lụa và Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21” vào tháng 5/2017, tập
trung vào 7 khu vực hợp tác chủ chốt. Trong khi đó, Trung Quốc đã bày tỏ sự
quan tâm đến các dự án phát triển trị giá hàng tỷ USD cho một sân bay mới (ở
Siem Reap), các cảng biển (thuộc tỉnh Koh Kong), đường cao tốc và các nhà máy
thủy điện trong khuôn khổ BRI.
Do mức độ phát triển thấp, các
chính phủ Lào và Campuchia đã mở rộng vòng tay chào đón những đề xuất và sáng
kiến kinh tế của Trung Quốc. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lào, tổng
đầu tư tích lũy của Trung Quốc tại Lào đã vượt mức 6 tỷ USD trong năm 2016 –
khiến Trung Quốc trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở nước này. Bộ này
cũng xác định Trung Quốc là bên cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) lớn
nhất hay nhà tài trợ lớn nhất cho Lào trong năm 2014 với tổng vốn tài trợ là
187 triệu USD. Ở Campuchia, Trung Quốc cũng là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất với
tổng vốn đầu tư tích lũy đạt gần 12 tỷ USD tính đến cuối năm 2016. Nó rõ ràng
chiếm tới gần 35% tổng FDI vào Campuchia. Tương tự, Campuchia cũng coi Trung Quốc
là đối tác viện trợ tài chính và phát triển quan trọng nhất của nước này (Lưu
ý: các khoản vay và cho vay ưu đãi đã làm nên một khoản “viện trợ” khổng lồ từ
Trung Quốc nhưng chúng không được tính vào tính toán về ODA của OECD và phương
Tây). Khoản viện trợ kinh tế và cho vay chính xác của Trung Quốc dành cho Lào
và Campuchia vẫn chưa được xác định do số liệu rải rác. Tuy nhiên, chúng rất lớn
và hầu hết dành cho các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm mang tính chiến lược. Ví
dụ, văn phòng của Ngân hàng thế giới ở Viêng Chăn ước tính Trung Quốc đã bổ
sung khoảng 4,8 tỷ USD vào khoản vay cho Lào chỉ riêng trong dự án HSR. Ở
Campuchia, Trung Quốc được xác định là bên cho vay nước ngoài lớn nhất của
Campuchia từ năm 2010 với các dự án như dự án thủy điện Hạ Sesan 2 trị giá 900
triệu USD và một dự án xây dựng đường cao tốc quốc gia trị giá 1,6 tỷ USD được
tài trợ bằng tiền của Trung Quốc.
Gần như không có tranh luận trong
bộ máy chính quyền của Lào và Campuchia về việc liệu họ có nên tiếp tục phụ thuộc
nặng nề vào Trung Quốc hay không. Đối với nhiều người đối thoại với tác giả ở
Viêng Chăn và Phnom Penh, “tàu đã rời ga”. Câu hỏi không còn là liệu Lào hay
Campuchia có nên tiếp tục dính dáng với Trung Quốc hay không – theo quan điểm của
họ, đơn giản là không có phương án thay thế nào có thể tồn tại xét tới các nhu
cầu phát triển hiện nay. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để sống chung và đối phó
với các “hậu quả” kinh tế-xã hội của sự phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc về
thương mại, đầu tư và viện trợ tài chính.
Sự phụ thuộc kinh tế quá mức ngày
càng tăng
Hiện nay, cả Lào và Campuchia đều
phụ thuộc như nhau vào đầu tư và viện trợ tài chính của Trung Quốc để duy trì tốc
độ tăng trưởng kinh tế cần thiết giúp họ có thể đạt được các mục tiêu phát triển
của mình.
Ở Lào, các nhà nghiên cứu thuộc
Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia (NIER) đã nói với tác giả rằng đầu tư và viện
trợ của Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì tỷ lệ tăng
trưởng cao của nước này để họ có thể đạt được các mục tiêu thoát khỏi vị thế một
nước chậm phát triển vào năm 2020. Trung Quốc không chỉ cung cấp đầu tư và viện
trợ trên một quy mô không nước nào sánh được (Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan hay
Việt Nam), mà quan trọng hơn cả, họ có thể cung cấp đầu tư trực tiếp và các dự
án cho các khu vực tăng trưởng chiến lược của nền kinh tế. Chẳng hạn, có một số
quan ngại trong các cơ quan kinh tế của Lào rằng tăng trưởng đã chậm lại trong
“các khu vực đầu tư truyền thống” của Trung Quốc như khai khoáng, nông nghiệp,
cao su và xây dựng đô thị (Lưu ý: Cho đến tháng 6/2013, các dự án khai khoáng
chiếm đến 50% các khoản đầu tư của Trung Quốc tại Lào). Những lo ngại này cũng
được kết hợp với những lo ngại về các hạn chế do Bắc Kinh đặt ra đối với dòng vốn
chảy ra của Trung Quốc vào đầu năm 2017. Tuy nhiên, những mối lo ngại này đã lắng
xuống một mức độ nào đó khi Trung Quốc cho thấy họ có thể thay đổi đáng kể cơ cấu
và đường hướng các khoản đầu tư nước ngoài của họ. Trọng tâm hiện nay là lĩnh vực
xây dựng và kết nối cơ sở hạ tầng và được gắn kết bởi lời hứa hẹn về các dự án
đầu tư mới trong khuôn khổ BRI, AIIB và Cơ chế hợp tác Lan Thương-Mekong. Các
nhà hoạch định chính sách của Lào cũng đã được trấn an rằng các dự án liên quan
đến chính phủ này sẽ không bị ảnh hưởng bởi việc cắt giảm vốn. Tóm lại, Lào có
thể tiếp tục phụ thuộc vào Trung Quốc để giúp duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
của mình.
Campuchia cũng coi Trung Quốc là
ván cược tốt nhất của họ để duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao và thoát khỏi vị thế
một nước chậm phát triển (cho đến năm 2025). Một cố vấn cấp cao của chính phủ
đã nói với tác giả rằng các nhà đầu tư nước ngoài như Nhật Bản đã phàn nàn với
các nhà lãnh đạo Campuchia về giá năng lượng cao và các thiếu hụt về cơ sở hạ tầng
của nước này. Trong khi họ đã “xác định một cách đúng đắn” đây là những yếu tố
chủ đạo gây cản trở cho các dự án đầu tư trong khu vực tư nhân với quy mô lớn
hơn, Chính phủ Nhật Bản không sẵn lòng giúp Campuchia phát triển những khu vực
này. Đầu tư của Nhật Bản (giống như Mỹ, Hàn Quốc và EU) vẫn hướng nhiều về khu
vực tư nhân và tập trung vào các lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên, Trung Quốc là
đối tác duy nhất có đủ vốn và nguồn lực để đầu tư vào “các dự án 1-2 tỷ USD” mà
có thể giúp Campuchia phát triển các lĩnh vực năng lượng và cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, những rủi ro của việc
quá phụ thuộc vào Trung Quốc dường như tương đối thấp đối với Lào. Điều này thoạt
nhìn có thể không rõ ràng do quy mô tương đối của các dự án nổi bật của Trung
Quốc chẳng hạn như dự án HSR khổng lồ. Một nhà kinh tế ở Viêng Chăn đã chỉ ra
cho tác giả rằng Trung Quốc có nhiều lợi ích hơn so với Lào trong dự án này. Do
mối liên kết nổi bật của nó với khuôn khổ BRI, Trung Quốc “phải làm cho nó hoạt
động hiệu quả” xét tới đánh giá của hầu hết các nhà kinh tế rằng các tuyến đường
sắt cao tốc hiếm khi sinh lời. Do đó, công việc khó khăn cần thiết để thực hiện
“thành công” dự án này vào năm 2021 sẽ phải là trách nhiệm của Trung Quốc.
Ngoài dự án HSR khổng lồ, Trung Quốc không phải đối tác duy nhất của Lào. Không
được chú ý nhiều bằng các nỗ lực của Trung Quốc trong việc tạo ra các đường vận
chuyển huyết mạch Bắc-Nam từ Vân Nam là các hành lang hay đường cao tốc
Đông-Tây cung cấp các tuyến đường thay thế trong sứ mệnh của Lào trở thành một
nước “liên kết đất liền” (ngược lại với “hoàn toàn nằm trong đất liền”). Điều
thú vị là những điều này thường được đảm bảo bởi các đối tác phát triển như Nhật
Bản và Hàn Quốc với mục đích mang lại “khả năng tiếp cận” các cảng của Việt
Nam. Một dự án như vậy là Hành lang kinh tế Đông-Tây tiểu vùng sông Mekong mở rộng
(GMS) của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) kết nối Lào (thông qua thành phố
Savannakhet ở phía Nam) với thành phố cảng Đà Nẵng của Việt Nam. Một dự án khác
có thể có tác động nhiều hơn là đề xuất xây dựng các đường cao tốc mới nối
Viêng Chăn với Hà Nội cũng như cảng biển khu công nghiệp Vũng Áng ở Việt Nam.
Trong khi các thể thức tài chính vẫn còn mơ hồ, nghiên cứu khả thi ban đầu (do
Hàn Quốc tài trợ) cho thấy rằng toàn bộ sáng kiến này có thể tiêu tốn hơn 4,5 tỷ
USD. Trong khi các khoản đầu tư của Trung Quốc vẫn được dự đoán là sẽ chiếm ưu
thế trong nền kinh tế Lào, các phương án thay thế “Đông-Tây” có thể giúp Lào đa
dạng hóa lựa chọn.
Mặt khác, Campuchia dường như thoải
mái hơn khi dựa vào Trung Quốc. Một cựu bộ trưởng của Campuchia đã nói với tác
giả rằng điều này không chỉ là do một yêu cầu kinh tế thuần túy. Giới tinh hoa
cầm quyền thoải mái hơn với đầu tư và viện trợ kinh tế của Trung Quốc với rất
ít việc “kiểm tra kỹ lưỡng” và “các ràng buộc và điều kiện” (so với đầu tư/viện
trợ của phương Tây). Đối với các dự án quy mô lớn ở cấp liên chính phủ, có vẻ gần
như không có sự kiểm tra hay thậm chí tranh luận về các nguy cơ của việc quá phụ
thuộc. Thực vậy, các quan chức Campuchia có khuynh hướng không chỉ trích sự hiện
diện kinh tế của Trung Quốc và nhanh chóng bảo vệ các khoản đầu tư của Trung Quốc.
Những biểu hiện bất bình về sự hiện
diện kinh tế của Trung Quốc chủ yếu xuất phát từ các tổ chức tư vấn độc lập và
các nhà bình luận. Về vấn đề này, tác giả đã gặp các nhà nghiên cứu thuộc Viện
nguồn lực phát triển Campuchia, những người không mấy lạc quan về đầu tư của
Trung Quốc. Họ mô tả các nhà đầu tư tư nhân của Trung Quốc là “tự do” (tìm kiếm
lợi nhuận nhanh chóng). Trong khi đó, các nhà đầu tư lớn hơn thuộc doanh nghiệp
nhà nước của Trung Quốc thường không tìm kiếm sự cân bằng giữa phát triển và bền
vững. Tóm lại, vốn của Trung Quốc đã trợ giúp cho sự phát triển kinh tế của
Campuchia trong ngắn hạn – nhưng vẫn có những câu hỏi cần phải đặt ra về chất
lượng của các khoản đầu tư này trong dài hạn. Ở khía cạnh quản trị, các nhà
nghiên cứu cũng chỉ trích các doanh nghiệp nhà nước và doanh nhân Trung Quốc,
những người sẵn sàng tận dụng “mạng lưới bảo trợ” và “cửa sau” của Campuchia để
phục vụ cho các giao dịch của họ. Do đó, luận điệu chính thức hướng đến một
“cánh cửa mở” cho tất cả các nước, nhưng sân chơi có lẽ không ngang bằng trên
thực tế. Các quan chức Campuchia đương nhiên bác bỏ những tuyên bố như vậy. Một
quan chức cấp cao đã nói với tác giả rằng đầu tư của Trung Quốc “không hoàn hảo”
và chỉ ra rằng Campuchia đang làm việc chặt chẽ và cũng hoan nghênh các nhà đầu
tư lớn khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU và Mỹ. Trong trường hợp của Nhật Bản, mức
độ viện trợ kinh tế là thực chất và lâu dài. Ngoài ra, Campuchia cũng đã nâng cấp
quan hệ với Nhật Bản lên mức “đối tác chiến lược” vào năm 2013. Tuy nhiên, sự sẵn
sàng và khả năng của Trung Quốc trong việc đầu tư và hỗ trợ Campuchia trong các
lĩnh vực chiến lược như cơ sở hạ tầng, năng lượng và xây dựng cảng là “không có
gì sánh kịp” – do đó, không nên ngạc nhiên khi Campuchia đặc biệt ủng hộ các đề
nghị về kinh tế và kinh doanh của Trung Quốc hơn những nước khác.
Sự hiện diện ngày càng tăng của
Trung Quốc trên thực địa
Sự đón nhận của Lào và Campuchia
dành cho sự hiện diện kinh tế của Trung Quốc ở cấp liên chính phủ là hết sức tích
cực, nhưng điều này kém rõ ràng hơn ở cấp nhân dân 2 nước. Đối với cả 2 xã hội,
vốn và đầu tư của Trung Quốc mang lại những thay đổi và sự phát triển về vật chất,
đặc biệt là ở các thành phố và thị trấn. Đồng thời, cả xã hội Lào và Campuchia
cũng phải đối phó với người di cư làm kinh tế mới từ Trung Quốc. Không có số liệu
chính thức chính xác, nhưng ước tính khoảng 50.000 người ở Lào và 120.000 người
ở Campuchia. Dự kiến sẽ còn có nhiều người hơn khi Trung Quốc tăng cường BRI và
các dự án cơ sở hạ tầng của họ trong khu vực. Tại Lào, tác giả được biết Trung
Quốc dự tính đưa hơn 50.000 công nhân vào làm việc trên tuyến đường sắt cao tốc
dài 417 km – và gần 10.000 người đã vào nước này để làm việc trong giai đoạn
đào hầm ban đầu. Trong khi đó, các dự án cơ sở hạ tầng và xây dựng của Trung Quốc
ở Campuchia cũng đã đem đến một lượng đáng kể công nhân người Trung Quốc. Theo
báo cáo, chỉ riêng ở Phnom Penh đã có hơn 50.000 người di cư – với số lượng dự
kiến sẽ tăng lên cùng với sự bùng nổ của các dự án phát triển bất động sản của
Trung Quốc.
Sự lo ngại và oán giận đối với sự
hiện diện của Trung Quốc kém rõ ràng hơn ở Lào, nơi nhà cầm quyền thực hiện quyền
kiểm soát tương đối chặt chẽ - nhưng không phải là hoàn toàn không có. Về mặt
cá nhân, nhiều công dân Lào mà tác giả đã gặp thừa nhận rằng người di cư từ
Trung Quốc đã mang lại vốn, kỹ năng, dự án kinh doanh và những công nghệ mới vô
cùng cần thiết. Tuy nhiên, họ cũng mang lại sự cạnh tranh cũng như các tác động
không mong muốn. Hai dự án thương mại siêu lớn nổi tiếng của Trung Quốc ở Lào –
thành phố Golden Boten City và đặc khu kinh tế (SEZ) Golden Triangle – minh họa
cho sự phân chia này giữa các hoạt động đáng thèm khát (phát triển du lịch,
SEZ) và những thực tiễn không mong muốn (cờ bạc, mại dâm, rửa tiền buôn bán thuốc
phiện, buôn bán động vật hoang dã,…). Tác giả cũng đã biết được từ các mối quan
hệ kinh doanh rằng có một số trường hợp – mặc dù hiếm hoi – trong đó các cá
nhân Lào từ chối bán bất động sản quan trọng ở Viêng Chăn cho Trung Quốc vì nước
này bị coi là đang “mua chuộc” Lào. Công bằng mà nói, trường hợp nêu trên liên
quan đến một số cá nhân giàu có thuộc nhóm “những người giàu cũ”. Thực tế là hầu
hết người dân Lào thời điểm này nhìn chung thực dụng hơn và ít dè dặt hơn về việc
giao dịch với Trung Quốc.
Tuy vậy, giới chức Lào không phải
là không nhạy cảm trước những lo ngại xã hội này và thực tế đang thực hiện một
số bước đi cải thiện. Một công cụ tuyên truyền thú vị mà Chính phủ Lào đã sử dụng
là sản xuất một video nhạc rock tiếng Lào thời thượng và trẻ trung ca ngợi những
lợi ích của sự hợp tác Trung-Lào và những lợi ích mà BRI sẽ mang lại cho Lào.
Bên cạnh cách tiếp cận mềm mỏng này, các quan chức thuộc Viện quan hệ quốc tế
đã nói với tác giả rằng chính phủ đã tiến hành các bước can dự với công dân của
mình từ cấp cơ sở - đặc biệt là trong những khu vực bị ảnh hưởng bởi các dự án
cơ sở hạ tầng của Trung Quốc và ở những tỉnh mà HSR chạy qua – để giải thích lợi
ích của đầu tư của Trung Quốc cũng như cách thức chính quyền có thể hỗ trợ giải
quyết các vấn đề liên quan đến việc di dời và đền bù.
Không giống như Lào, sự oán giận
và quan ngại trong xã hội đối với sự hiện diện của Trung Quốc ở Campuchia dễ bị
bộc lộ và lan rộng hơn trong hệ thống tương đối mở của Campuchia. Chẳng hạn,
tin tức trên các phương truyền thông đã nêu bật sự lo ngại của quần chúng về việc
Trung Quốc “chiếm đoạt đất đai” và làm suy yếu nền kinh tế (đặc biệt thông qua
các dự án khai khoáng và thủy điện) trong những năm gần đây. Tuy nhiên, những
nhà quan sát am hiểu nhất cũng đồng ý rằng thường không dễ phân biệt rạch ròi
giữa tình cảm chống Trung Quốc và tình cảm chống chính phủ do các nhóm đối lập
và các NGO lớn tiếng có khuynh hướng gộp chung những tình cảm này. Tuy nhiên, vấn
đề lớn hơn là tất cả các dự án đầu tư nước ngoài đều thất bại theo thời gian,
nhưng Campuchia nhìn chung vẫn đón nhận sự hiện diện của Trung Quốc.
Kết luận
Trong giai đoạn này, Viêng Chăn
và Phnom Penh nhận thức rằng tác động kinh tế-xã hội của sự hiện diện của Trung
Quốc vẫn có thể quản lý được. Trong bối cảnh rộng hơn, những tình cảm chống
Trung Quốc mạnh mẽ không quá phổ biến ở Lào và Campuchia so với các nước khác
trong khu vực. Về mặt lịch sử, các cộng đồng người Hoa-Lào và Hoa-Khmer đều nhỏ
và hòa nhập tốt. Điều này sẽ thay đổi ra sao với làn sóng đầu tư và di cư mới
nhất của Trung Quốc, sẽ cần theo dõi và nghiên cứu.
Nguy cơ tương đối thấp hơn về hậu
quả chính trị trong nước đối với Lào và Campuchia đồng nghĩa với việc hiện nay
hầu như không có gì ngăn các chế độ của 2 nước bị coi là nước lệ thuộc về kinh
tế vào Trung Quốc. Trong khi Lào và Campuchia có nguy cơ trở thành nước chư hầu
về kinh tế vào Trung Quốc, đây không phải một tình hình mới đối với cả 2 nước.
Họ đã phụ thuộc rất nhiều vào một loạt nước lớn cho các nhu cầu phát triển kể từ
thời kỳ thuộc địa. Lào và Campuchia sẽ cố gắng quản lý sự phụ thuộc ngày càng
tăng của họ vào Trung Quốc, nhưng trong tương lai gần, không nước nào có khả
năng sẽ thoát khỏi tư tưởng phụ thuộc này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét