VŨ LINH CHÂU.
Từ lâu, tôi đã có dịp bày tỏ lòng ngưỡng mộ và khâm phục về
việc đặt tên cho các đường phố tại Saigon vào năm 1956, ngay sau khi chúng ta
dành được độc lập từ tay thực dân Pháp. Vì đây là một công việc qúa xuất sắc và
qúa hoàn thiện, nên tôi vẫn đinh ninh rằng đó phải là một công trình do sự đóng
góp công sức và trí tuệ của rất nhiều người, của một ủy ban gồm nhiều học giả,
nhiều sử gia, nhiều nhà văn, nhà báo...
Nhưng thật là bất ngờ, bất ngờ đến kinh ngạc, khi qua tài liệu
đính kèm của tác giả Nguyễn văn Luân, chúng ta được biết kiệt tác của lịch sử
này đã được hoàn thành bởi ... một người. Người đó là ông Ngô văn Phát, trưởng
phòng họa đồ thuộc Tòa Đô Chánh Saigon.
Nhà văn Ngô văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, sinh quán tại
huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Nhân đây, tôi cũng xin được gửi lại một vài ý kiến liên hệ của
tôi:
"... Nói vào chi tiết hơn, vua Lê Thánh Tôn đã mở mang
bờ cõi từ Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Rồi sau đó, chúa Nguyễn Hoàng và
con cháu đã vượt đèo Cù Mông, đánh chiếm Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, vĩnh viễn xóa sổ nước Chiêm Thành khỏi bản đồ thế giới. Rồi còn tiếp tục
mang về cho dân tộc cả một đồng bằng Nam Phần mênh mông bao la, từ Đồng Nai đến
Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc... Cũng phải kể luôn cả "Hoàng Triều
Cương Thổ" (vùng đất mà thực dân Pháp dành riêng cho các vua nhà Nguyễn)
là vùng Cao nguyên Trung phần trù phú mầu mỡ hiện nay. Dĩ nhiên công cuộc mở
mang bờ cõi này cũng bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Truờng Sa nữa.
Nghĩa là hơn một nửa diện tích đất liền của Việt Nam hiện
nay là do giòng họ của Chúa Nguyễn Hoàng đã mang về cho dân tộc Việt Nam!
Riêng Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần, là người đã có công rất
lớn trong công cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là Chúa Hiền Vương
đã đóng góp rất nhiều công sức trong việc bình định và chinh phục vùng đất Gia
Định ngày xưa. Gia định ngày xưa bao gồm Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa, Vũng
Tàu, Tây Ninh, Phước Long, Bình Long, Long An, Mỹ Tho, Gia Định, Saigon... bây giờ. Cho nên chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
đã lấy tên của Ngài để đặt cho một trong hai con đường chính từ hướng Bắc dẫn
vào trung tâm Thành Phố Saì Gòn. (CSVN đã thay Hiền Vương bằng tên của Võ Thị Sáu
– Đường Nguyễn Hoàng bị đổi thành Trần Phú...).
Loại bỏ tên cuả Chúa Nguyễn Hoàng, của Chúa Hiền Vương và
các vị ân nhân của dân tộc trong công cuộc Nam Tiến ra khỏi bản đồ Sài Gòn và
các thành phố Miền Nam là điều mà tục ngữ ca dao bình dân gọi là "ăn cháo,
đá bát".
Đấy là chưa nói tới giấc mộng...Tây Tiến chưa thành. Hai vị
trung thần nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt và Trương Minh Giảng đã mở mang bờ cõi nước
ta tới tận biên giới... Thái Lan bây giờ, đã thiết lập thêm một Trấn mới là Trấn
Tây Thành, (hai Trấn kia là Trấn Bắc Thành và Trấn Gia Định Thành). Phải chăng
chính vì vậy mà ngay từ khi vừa dành được chủ quyền từ tay thực dân Pháp, hai
con đường lớn từ trung tâm Sài Gòn hướng về Bà Quẹo để sang thẳng đất Miên qua
ngả Gò Dầu, đã được mang tên hai vị Anh Hùng Tây Tiến nổi danh này. Đó là đường
Trương Minh Giảng và đường Lê Văn Duyệt. Phải chăng đó cũng như là một nhắc nhở
cho các thế hệ mai sau về một sứ mạng chưa thành, một "Mission
unaccomplished"...
***
Nhà văn Thuần Phong Ngô văn Phát và việc đặt tên đường phố
Sàigòn năm 1956.
Nguyễn văn Luân.
Trong những năm làm việc tại Tòa Đô Chánh Saigon, tôi có dịp
góp phần trông coi việc xây dựng và tu bổ đường xá, lúc thì tại Khu Kiều Lộ
Saigon Tây (Chợ Lớn) gồm 6 quận 5, 6, 7, 8, 10 và 11, lúc thì tại Khu Kiều Lộ
Saigon Đông (Saigon) gồm 5 quận 1, 2, 3, 4 và 9. Hàng ngày họp với các ông cai
lục lộ phụ trách từng khu vực, nghe báo cáo đường thì ngập nước sau cơn mưa, đường
thì có ổ gà, nhựa đường tróc hết trơ lớp đá xanh đá đỏ nền đường, đường thì dân
xây cất trên lộ giới tràn ra lề đường, nên tôi gần như thuộc lòng tên hơn 300
con đường.
Qua bao nhiêu năm lịch sử của thành phố, hầu hết đều có tên
Tây như:
Boulevard
Charner
Boulevard
Galliéni
Boulevard
Kitchener
Boulevard Norodom v.v
Sau hiệp định Genève tháng 7 năm 1954 chính quyền Pháp bàn
giao cho chính phủ Bảo Đại, với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Để đánh dấu việc dành độc lập từ tay người Pháp, Toà Đô
Chánh Sàigòn được lệnh gấp rút thay thế toàn bộ tên đường từ tên Pháp qua tên
Việt trong khoảng thời gian ngắn nhất. Trong lịch sử của các thành phố có bao
nhiêu lần đổi tên hàng loạt toàn bộ các con đường như thế này? Có lẽ vô cùng hiếm
hoi.
Việc đối chiếu tên các danh nhân trong lịch sử 4000 năm để đặt
tên đường sao cho hợp lý không phải dễ. Chỉ nghĩ đơn thuần, khi dùng tên Vua
"Trần Nhân Tôn" và Tướng "Trần Hưng Đạo", người làm dưới
trướng của Vua, để đặt tên cho 2 con đường thì đường nào to và quan trọng hơn?
Câu hỏi nhỏ như vậy còn thấy không đơn giản, huống chi cân nhắc cho ngần ấy con
đường trong một thời gian gấp rút thật không dễ.
Lúc bấy giờ công việc này được giao cho Ty Kỹ Thuật mà Phòng
Hoạ Đồ là phần hành trực tiếp. May mắn thay cho thành phố có được nhà văn Ngô
Văn Phát**, bút hiệu Thuần Phong, có bằng Cán Sự Điền Điạ lúc ấy đang giữ chức
Trưởng Phòng Hoạ Đồ.
Năm 1956, sau hơn ba tháng nghiên cứu, ông đã đệ trình lên Hội
Đồng Đô Thành, và toàn bộ danh sách tên đường ấy đã được chấp thuận. Khi tôi vô
làm năm 1965 và hàng ngày lái xe đi công trường, đụng chạm với các con đường mới
cảm nhận được sự uyên bác về lịch sử của ông. Nhìn những tên đường trên họa đồ,
khu nào thuộc trung tâm thành phố, khu nào thuộc ngoại ô, đường nào tên gì và vị
trí gắn bó với nhau, càng suy nghĩ càng hiểu được cái dụng ý sâu xa của tác giả.
Các đường được đặt tên với sự suy nghĩ rất lớp lang mạch lạc
với sự cân nhắc đánh giá bao gồm cả công trạng từng anh hùng một lại phù hợp với
điạ thế, và các dinh thự đã có sẵn từ trước. Tác giả đã cố gắng đem cái nhìn vừa
tổng quát lại vừa chi tiết, những khiá cạnh vừa tình vừa lý, đôi khi chen lẫn
tính hài hước, vào việc đặt tên hiếm có này. Tôi xin kể ra đây vài thí dụ, theo
sự suy đoán riêng của mình, bởi vì ông có nói ra đâu, nhưng tôi thấy rõ ràng là
ông có ý ấy:
- Đầu tiên là những
con đường mang những lý tưởng cao đẹp mà toàn dân hằng ao ước: Tự Do, Công Lý,
Dân Chủ, Cộng Hoà, Thống Nhất. Những con đường hoặc công trường này đã nằm ở những
vị trí thích hợp nhất.
- Đường đi ngang
qua Bộ Y Tế thì có tên nào xứng hơn là Hồng Thập Tự.
- Đường de
Lattre de Tassigny chạy từ phi trường Tân Sơn Nhất đến bến Chương Dương đã được
đổi tên là Công Lý, phải chăng vì đi ngang qua Pháp Đình Sàigòn. Con đường dài
và đẹp rất xứng đáng. Ba đường Tự Do, Công lý và Thống Nhất giao kết với nhau nằm
sát bên nhau bên cạnh dinh Độc Lập.
- Đại lộ Nguyễn
Huệ nằm giữa trung tâm Sàigòn nối từ Toà Đô Chánh đến bến Bạch Đằng rất xứng
đáng cho vị anh hùng đã dùng chiến thuật thần tốc phá tan hơn 20 vạn quân
Thanh. Đại lộ này cũng ngắn tương xứng với cuộc đời ngắn ngủi của ngài.
- Những danh nhân
có liên hệ với nhau thường được xếp gần nhau như Đại Lộ Nguyễn Thái Học với đường
Cô Giang và đường Cô Bắc, cả ba là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Hoặc đường
Phan Thanh Giản với đường Phan Liêm và đường Phan Ngữ, Phan Liêm và Phan Ngữ là
con, đã tiếp tục sự nghiệp chống Pháp sau khi Phan Thanh Giản tuẫn tiết.
- Những đại lộ
dài nhất được đặt tên cho các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Lê Lợi và
Hai Bà Trưng. Mỗi đường rộng và dài tương xứng với công dựng nước giữ nước của
các ngài.
- Đường mang tên Lê Lai, người chịu chết
thay cho Lê Lợi thì nhỏ và ngắn hơn nằm cận kề với đại lộ Lê Lợi.
- Đường Khổng Tử
và Trang Tử trong Chợ Lớn với đa số cư dân là người Hoa.
- Bờ sông Sàigon
được chia ra ba đoạn, đặt cho các tên Bến Bạch Đằng, Bến Chương Dương, và Bến
Hàm Tử, ghi nhớ những trận thuỷ chiến lẫy lừng trong lịch sử chống quân Mông cổ,
chống Nhà Nguyên cuả Hưng Đạo Đại Vương vào thế kỷ 13.
- Cụ Nguyễn Du,
mà thầy đồ Thiệp, người dạy học vỡ lòng cho tôi, khi nói chuyện với cha tôi,
bao giờ cũng gọi với danh xưng Cụ Thánh Tiên Điền. Cuốn truyện Kiều của cụ ngày
nay được chúng ta dùng như là khuôn mẫu cho tiếng Việt, khi có sự tranh luận về
danh từ hay văn phạm, người ta thường trích một câu Kiều làm bằng. Vậy phải tìm
đường nào đặt tên cho xứng? Tôi thấy con đường vừa dài vừa có nhiều biệt thự đẹp,
với hai hàng cây rợp bóng quanh năm, lại đi ngang qua công viên đẹp nhất
Saigon, vườn Bờ Rô, và đi ngang qua Dinh Độc Lập, thì quá xứng đáng. Không có
đường nào thích hợp hơn. Tuyệt! Vườn Bờ Rô cũng được đổi tên thành Vườn Tao Đàn
làm cho đường Nguyễn Du càng thêm cao sang.
- Vua Lê Thánh
Tôn, người lập ra Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú, cũng cho mang tên một con đường ở địa
thế rất quan trọng, đi ngang qua một công viên góc đường Tự Do, và đi trước mặt
Toà Đô Chánh.
- Trường Nữ
trung học Gia Long lớn nhất Sài gòn thì, (trớ trêu thay?), lại mang tên ông vua
sáng lập nhà Nguyễn. Trường nữ mà lại mang tên nam giới! Có lẽ nhà văn Thuần
Phong muốn làm một chút gì cho trường nữ trung học công lập lớn nhất thủ đô có
thêm nữ tính, nên đã đặt tên hai đường song song nhau cặp kè hai bên trường bằng
tên của hai nữ sĩ: Bà Huyện Thanh Quan và Đoàn Thị Điểm. Chùa Xá Lợi nằm trên
đường Bà Huyện Thanh Quan thấy cũng nhẹ nhàng.
- Thẳng góc với hai đường Bà Huyện Thanh
Quan và Đoàn Thị Điểm là đường Hồ Xuân Hương. Ba nữ sĩ nằm bên cạnh nhau, thật
là có lý, nhưng có lý hơn nữa có lẽ là đường Hồ Xuân Hương đi ngang qua bệnh viện
Da Liễu. Tác giả những câu thơ "Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại hai
bên thịt vẫn thừa" mà cho mang tên đường có bệnh viện Da Liễu có lẽ cũng xứng
hợp.
Ông Nhà Văn - Trưởng Phòng Họa Đồ quả là sâu sắc.
Rất tiếc là lúc vào làm việc thì Thuần Phong Ngô văn Phát đã
về hưu nên tôi không được hân hạnh gặp mặt. Mãi sau này mới có dịp đọc tiểu sử
của ông, mới hết thắc mắc làm sao chỉ là một công chức như tôi mà ông đã làm được
việc quá xuất sắc và hi hữu này.
Tiểu sử nhà văn lấy từ nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/ T%E1%BB%91_Phang
Nhà văn, nhà họa đồ Ngô Văn Phát, bút hiệu Thuần Phong, Tố
Phang, Đồ Mơ, sinh ngày 16-10-1910 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.
Thuở nhỏ học ở Bạc Liêu, Sài Gòn, đậu bằng Thành Chung rồi
nhập ngạch họa đồ ngành công chánh. Ông ham thích văn chương từ ngày còn ngồi
trên ghế nhà trường, từng có thơ đăng trên Phụ nữ tân văn, họa mười hai bài Thập
thủ liên hoàn của Thương Tân Thị... Có lúc ông dạy Việt văn tại trường Pétrus
ký Sài Gòn.
Năm 1957 ông có bài đăng trên bộ Tự điển Encyclopedia -
Britannica ở Luân Đôn (Anh Quốc). Đó là chuyên đề Khảo cứu về thành phố Sài
Gòn.
Năm 1964 chuyên đề Ca dao giảng luận in trên tạp chí Trường
Viễn đông Bác cổ ở Paris (sau in thành sách ở Sài Gòn). Cùng năm này Trường Cao
học Sorbonne (Paris), ông cũng có chuyên đề Nguyễn Du et la métrique populaire
(Nguyễn Du với thể dân ca) trong bộ sách nhan đề: Mélanges sur Nguyen Du (Tạp
luận về Nguyễn Du).
Những năm 70 ông được mời giảng môn Văn học dân gian tại Đại
học Văn khoa, Sư phạm Huế và Cần Thơ.
Ông mất trong năm 1983 tại Sài Gòn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét