Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc phát biểu trong hội nghị bộ trưởng Thương mại APEC tại Hà Nội ngày 20/05/2017. |
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc là lãnh đạo
Đông Nam Á đầu tiên và là lãnh đạo châu Á thứ ba được tổng thống Mỹ
Donald Trump đón tiếp tại Nhà Trắng, sau thủ tướng Nhật Shinzo Abe và
chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Cho dù điều này không có nghĩa Việt
Nam là quốc gia châu Á quan trọng thứ ba đối với Hoa Kỳ, nhưng sự hăng
hái gặp gỡ nhau và dành ưu tiên trong chương trình nghị sự của đôi bên,
cũng nói lên được một ý nghĩa nào đó.
Hoa
Kỳ và Việt Nam có các vấn đề quan trọng về an ninh và kinh tế cần thảo
luận. Với con số xuất siêu 32 tỉ đô la, Việt Nam đứng hàng thứ sáu trong
số những nước đã khiến Mỹ bị thâm hụt thương mại 502 tỉ đô la trong năm
ngoái. Nhờ sự gần gũi về ý thức hệ với Bắc Triều Tiên, Hà Nội có thể
đóng một vai trò trong nỗ lực của Washington nhằm cô lập và gây áp lực
lên Bình Nhưỡng. Và là đất nước nằm trải dài ở bờ tây của Biển Đông,
Việt Nam nắm giữ chiếc chìa khóa cho sự thăng bằng sức mạnh trong khu
vực.
Sau khi Mỹ rút khỏi TPP, Hà Nội rất muốn biết chính quyền
Trump có thể đề nghị những gì để thay thế cho hiệp định này. Hà Nội cũng
rất lo lắng về khả năng Washington có thể bỏ qua những quyền lợi của
Việt Nam ở Biển Đông, để đổi chác sự hợp tác của Trung Quốc nhằm kềm chế
Bắc Triều Tiên.
Theo
nhà nghiên cứu Alexander Vuving, nếu những vấn đề nóng bỏng này khiến
cho chuyến công du của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc được chờ đợi, đó là
nhờ một cấp độ mới trong quan hệ Mỹ-Việt. Nếu không, Việt Nam không phải
gởi một trong những lãnh đạo cao cấp đến, và tổng thống Mỹ không phải
sắp xếp lịch làm việc của mình để đến thăm Việt Nam vào giai đoạn sớm
sủa này. Để hiểu được động lực căn bản, trước hết cần nhìn lại những
diễn tiến trong thời gian qua.
Nhìn lại những bước ngoặt ngoại giao Mỹ-Việt
Từng
là nơi mà ba triệu người Mỹ chiến đấu trong một cuộc chiến kéo dài hàng
mấy chục năm, Việt Nam không còn là ưu tiên trong chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ trong thập niên 80 và 90. Trong thời kỳ dài này, Raymond
Burghadt, đại sứ Mỹ tại Việt Nam từ năm 2001 đến 2004, ghi nhận « cách tiếp cận của Hoa Kỳ với Việt Nam tách biệt với bất kỳ kế hoạch chiến lược nào tại Đông Á ».
Việc tái lập quan hệ ngoại giao Mỹ-Việt năm 1995 là một dấu mốc hết sức
to lớn trong quan hệ song phương, nhưng không phải là một sự xoay
chuyển lớn trong chủ trương của Hoa Kỳ. Theo ông Burghadt, quan hệ đôi
bên đã được siết chặt hơn vào cuối thập niên 90, chủ yếu nhắm vào các cơ
hội kinh doanh, nhưng tiến độ vẫn chậm chạp.
Bước ngoặt lớn diễn
ra vào năm 2001, khi chính quyền George W.Bush có quan điểm khắt khe hơn
với Trung Quốc so với thời ông George H.W.Bush và Bill Clinton. Tổng
thống Bill Clinton năm 1997 đã cam kết hướng tới việc « xây dựng quan hệ đối tác chiến lược » với Bắc Kinh, nhưng ứng cử viên Bush năm 1999 cho rằng Trung Quốc cần được coi là « đối thủ chiến lược », chứ không phải là « đối tác chiến lược ».
Bà Condoleezza Rice, cố vấn an ninh của ông Bush, trong một bài viết năm 2000 nhận định Trung Quốc có « các lợi ích cốt lõi không thể giải quyết, đặc biệt về Đài Loan và Biển Đông ». Bắc Kinh « bực tức trước vai trò của Hoa Kỳ tại châu Á-Thái Bình Dương », và « muốn thay đổi sự thăng bằng quyền lực tại châu Á sang hướng có lợi cho mình ». Quan điểm địa chính trị này đã giúp nâng cao vai trò của Việt Nam trong chính sách Mỹ.
Sự
cởi mở của chính quyền Bush đối với Việt Nam – đối thoại về các vấn đề
chiến lược và hợp tác trong lãnh vực quốc phòng, an ninh – ban đầu vấp
phải thái độ cứng rắn của Hà Nội. Sau một thời gian ngắn ngả sang phương
Tây từ 1987-1989, Việt Nam lại xoay sang phía Trung Quốc vào năm 1990,
đánh dấu bởi mật nghị Thành Đô vào tháng Chín. Trong khi những người chủ
trương cải cách muốn duy trì quan hệ với Mỹ như một cánh cửa mở ra với
thế giới, và là đối trọng với Trung Quốc, phe bảo thủ lại khăng khăng
nói rằng Trung Quốc là bạn, người Mỹ là kẻ thù.
Năm
1990, cán cân quyền lực nghiêng hẳn về phía bảo thủ. Hậu quả là Việt
Nam ở lại trong quỹ đạo của Trung Quốc, và thận trọng « đi dây » giữa
hai đại cường. Trong chuyến thăm Bắc Kinh tháng 12/2001, tổng bí thư
Nông Đức Mạnh hứa sẽ chống lại « chủ nghĩa bá quyền », lặp lại
khẩu hiệu của Trung Quốc nhằm đối đầu với vai trò và sức mạnh của Hoa
Kỳ. Đó là lần đầu tiên câu « thần chú » chống Mỹ xuất hiện trong thông
cáo chung Việt-Trung, nhưng cũng là lần cuối cùng.
Tập Cận Bình tiếp ông Trần Đại Quang tại Bắc Kinh ngày 11/05/2017. |
Chiến tranh Irak và thế giới đơn cực
Việc
Hoa Kỳ đưa quân sang Irak năm 2003 đã khiến Việt Nam thay đổi hẳn quan
điểm chiến lược. Chỉ trong không đầy 50 ngày, một cường quốc Trung Đông
đã sụp đổ dưới sức mạnh quân sự của Mỹ. Chế độ bảo thủ Việt Nam bỗng
thức tỉnh, chợt hiểu rằng đang sống trong một thế giới đơn cực do Hoa Kỳ
dẫn đầu. Nhà nghiên cứu Alexander Vuving cho biết, lúc đó các quan chức
Hà Nội đã hỏi ông một cách nghiêm túc, là liệu Việt Nam và Bắc Triều
Tiên sẽ trở thành mục tiêu sắp tới hay không.
Tháng 7/2003, Trung
ương Đảng ra Nghị quyết 8, không còn coi ý thức hệ là chìa khóa để xác
định bạn-thù. Hà Nội chấp nhận các tiêu chí thực tiễn hơn để đánh giá
một chính phủ nước ngoài là « đối tác » hay « đối tượng ». Cựu đại sứ Mỹ Burghadt nhớ lại : «
Vào nửa cuối năm 2003, các nhà lãnh đạo Việt Nam thông báo cho tôi là
họ hoan nghênh những bước đi quan trọng mà nhiều năm qua họ từng chống
đối ».
Bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam năm
2003 đã mở đường cho việc tham gia trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo. Hà
Nội đẩy nhanh việc thương lượng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), trở thành thành viên năm 2006 ; và đến năm 2008 sẵn sàng chấp
nhận đề nghị của chính quyền Bush về việc tham gia hiệp định TPP.
Bắt
đầu từ cuối những năm 2000, những thách thức không ngừng tăng lên từ
phía Trung Quốc, đặc biệt là thái độ hung hăng của Bắc Kinh trên Biển
Đông, đã tạo động lực mới cho mối quan hệ đối tác Việt-Mỹ. Một năm sau
tuyên bố tại diễn đàn ASEAN ở Hà Nội tháng 7/2010, rằng « Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia » trên Biển Đông, ngoại trưởng Hillary Clinton đã nêu ra chiến lược mới của Mỹ được gọi là « xoay trục »,
theo đó Hoa Kỳ muốn triển khai quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam.
Trong chuyến đi Việt Nam tháng 7/2012, bà Clinton đã có động thái hết
sức ưu ái, là mời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Hoa Kỳ. Người
Mỹ hy vọng chuyến thăm chưa có tiền lệ này được thực hiện vào năm 2013.
Nhưng
phe bảo thủ ở Hà Nội đã phá ngang chuyến đi của ông Trọng. Những gì mà
phái cải cách và các đối tác Mỹ đạt được, là không phải ông Nguyễn Phú
Trọng, mà chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi thăm Mỹ, và kết quả là bản
thông cáo chung về Hợp tác toàn diện Việt-Mỹ. Cần phải có một hành động
khiêu khích lớn từ Bắc Kinh mới xoay chuyển được giới bảo thủ.
Tàu hải cảnh bảo vệ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981 Trung Quốc trên vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam. |
Giàn khoan Trung Quốc khiến Hà Nội mở mắt
Mùa
hè năm 2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan lớn nhất trị giá 1
tỉ đô la mang tên Hải Dương Thạch Du 981 sang vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam tại Hoàng Sa. Sự kiện này gây ra phong trào chống Trung Quốc
đại quy mô kéo dài nhiều tháng trời tại Việt Nam. Đây là cuộc khủng
hoảng tệ hại nhất giữa hai nước, kể từ sau vụ Trung Quốc thảm sát gần 70
thủ Việt Nam và chiếm sáu đảo nhỏ tại Trường Sa năm 1988.
Cuộc
khủng hoảng giàn khoan này đã khiến các lãnh đạo Việt Nam nhận ra rằng
Trung Quốc mới thực sự là đối thủ, còn người Mỹ là bạn. Cũng vào thời
điểm này, Hà Nội quyết định đẩy nhanh việc chuẩn bị cho chuyến công du
của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, tiến hành vào tháng 7/2015.
Việc
tổng thống Barack Obama phá vỡ mọi nghi thức để đón tiếp tổng bí thư
Việt Nam, vốn không có chức vụ chính thức trong chính quyền, là một sự
kiện mang tính đột phá. Đây là dấu hiệu đáng giá, đã thuyết phục được
các lãnh đạo Hà Nội, là Hoa Kỳ không câu nệ chế độ cộng sản của họ.
Nếu
vụ giàn khoan năm 2014 lần đầu tiên cho thấy Hà Nội tin tưởng ở
Washington hơn Bắc Kinh, thì chuyến đi của ông Trọng càng củng cố thêm
khuynh hướng này, và giảm hẳn mối nghi ngại về sự đe dọa của Mỹ. Chuyến
công du Việt Nam của ông Obama tháng 5/2016, nhân đó ông đã bãi bỏ lệnh
cấm vận vũ khí áp đặt lên Việt Nam từ nhiều thập niên qua, càng làm tăng
thêm sự tin cậy giữa hai cựu thù.
Quan
hệ Mỹ-Việt còn chịu ảnh hưởng gián tiếp của Trung Quốc. Là một nước
nhỏ, vấn đề sống còn của Việt Nam là phải khôn khéo trong quan hệ ngoại
giao và chính trị, giữa Trung Quốc ở sát bên cạnh, và nước Mỹ tận bên
kia đại dương. Từ 1990 đến nửa cuối năm 2003, Việt Nam còn nằm trong quỹ
đạo của Bắc Kinh. Cuộc khủng hoảng giàn khoan năm 2014 đã giúp Hà Nội
vượt qua cái giới hạn mong manh mà lâu nay vẫn tự hạn chế, để xích lại
gần hơn với Mỹ. Đó là bối cảnh thuận lợi đồng thời là khó khăn trong
chuyến thăm của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Người dân Saigon nồng nhiệt chào đón tổng thống Mỹ Barack Obama tháng 5/2016. |
« Make America Great » và quan hệ với Việt Nam
Hai
bước ngoặt chính trong chính sách Mỹ đối với Việt Nam (2001 và 2011) là
từ quan điểm cần phải cầm chân Trung Quốc, và Việt Nam có thể đóng vai
trò chủ chốt trong nỗ lực này. Sự hung hăng của Bắc Kinh cũng khiến cho
Washington một lần nữa chìa tay cho Hà Nội (2014). Còn phía Việt Nam,
như đã nói, là từ sau vụ Mỹ can thiệp vào Irak (2003).
Theo
chuyên gia Vuving, trong lúc việc giữ thăng bằng quan hệ ngoại giao và
chính trị giữa Washington và Bắc Kinh là vấn đề sống còn đối với nước
Việt Nam nhỏ bé, thì việc giúp Hà Nội ý thức được cán cân quyền lực trên
thế giới là chìa khóa thành công cho Hoa Kỳ tại châu Á. Có ba phương
diện chính : tăng cường năng lực kinh tế và quân sự của đôi bên, chứng
tỏ sức mạnh của Mỹ trước Trung Quốc, và duy trì thái độ hữu nghị với
Việt Nam.
Các mục tiêu trên cần được thực hiện qua một loạt các
chính sách rộng rãi, chứ không giới hạn ở quan hệ song phương Mỹ-Việt.
Đó là : một hiệp định thương mại và đầu tư hướng đến tương lai, chú
trọng mặt luật pháp chứ không phải dựa theo hiện trạng đối với Biển
Đông, và quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam.
1- Hiệp định thương mại và đầu tư bền vững
Đôi
bên cần có một hiệp định thương mại và đầu tư vững chắc, giúp đẩy mạnh
nền kinh tế và làm tăng sức mạnh quân sự một cách gián tiếp, mang lại
lợi ích địa chính trị lâu dài. Tuy một thỏa thuận đa phương như TPP khó
thể đạt được, Hoa Kỳ và Việt Nam có thể thương lượng một hiệp định mới,
không chỉ nhằm cải thiện tình trạng giao thương Mỹ-Việt hiện nay, mà cả
môi trường kinh tế Việt Nam. Một ví dụ là năm 2016, Việt Nam xuất siêu
32 tỉ đô sang Hoa Kỳ, nhưng lại nhập siêu 28 tỉ đô la từ Trung Quốc.
Hiệp định mới cần nhắm đến việc giảm xuất siêu sang Mỹ qua việc tăng
nhập khẩu thiết bị, hàng hóa kỹ thuật cao từ Hoa Kỳ và giảm nhập siêu
hàng chất lượng thấp từ Trung Quốc.
2- Quan điểm trọng luật chứ không trọng hiện trạng tại Biển Đông
Ai
kiểm soát được tuyến đường hàng hải quan trọng này sẽ khống chế được
châu Á, trong khi các đảo nhân tạo do Bắc Kinh hối hả bồi đắp gần đây đã
biến Biển Đông thành một nút cổ chai. Nếu Trung Quốc biến được Biển
Đông thành ao nhà của mình, thì vai trò và ảnh hưởng của Mỹ ở châu Á sẽ
bị sút giảm nghiêm trọng.
Trong
nhiều năm qua, Hoa Kỳ chỉ nhắm đến việc giữ nguyên trạng, trong khi
Trung Quốc nham hiểm lấn dần từng bước theo kiểu tằm ăn dâu. Bắc Kinh đã
thành công trong việc vừa làm thay đổi tình trạng địa lý lẫn cán cân
quyền lực, nhưng không gây ra xung đột vũ trang với các đối thủ. Khi
chấp nhận hiện trạng, Washington vô hình trung đã khiến Trung Quốc có
được lợi thế, trong khi mục tiêu phải là giữ nguyên hiện trạng ban đầu,
chưa có bàn tay nhào nặn của Bắc Kinh.
Chính hiện trạng khởi thủy
mới nằm trong lợi ích của Mỹ. Tình trạng hiện nay tại Biển Đông, với
những đảo nhân tạo rộng lớn do Bắc Kinh xây lên, những phi đạo dài, các
cảng nước sâu, hỏa tiễn địa-không và hỏa tiễn đối hạm, radar cao
tần…hoàn toàn bất lợi so với trước khi Trung Quốc đào đắp.
Theo
chuyên gia Vuving, Washington cần nhấn mạnh việc tôn trọng luật pháp,
gồm toàn bộ các đạo luật và án lệ phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển (UNCLOS). Bên cạnh đó là buộc Trung Quốc tuân thủ phán quyết
của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye, coi đường 9 đoạn do Bắc Kinh
tự vẽ là bất hợp pháp. Quan điểm « trọng luật » này có thể gây căng thẳng tạm thời, nhưng giúp tránh được chiến tranh sau này.
Đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer nói chuyện với bộ trưởng Công Thương VN Trần Tuấn Anh tại hội nghị APEC ở Hà Nội ngày 21/05/2017. |
3- Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam
Cho
dù Hoa Kỳ vẫn là siêu cường, Trung Quốc đang nhanh chóng thu ngắn
khoảng cách tại Đông Á, sẵn sàng trở thành ngang hàng với Mỹ trong khu
vực. Để duy trì ảnh hưởng, Hoa Kỳ rất cần đến các đồng minh trong vùng.
Nếu Việt Nam trở thành đồng minh, cán cân sẽ nghiêng về phía Mỹ, với một
quốc gia có vị trí chiến lược, khả năng kháng cự đã ăn sâu trong 90
triệu dân và kinh nghiệm hơn 2.000 năm đối phó với Trung Quốc cả trong
thời chiến lẫn thời bình.
Liên
minh này còn hơn cả một hiệp ước quốc phòng, có thể không đòi hỏi những
cam kết tương tự như Hoa Kỳ đã ký kết với các đồng minh khác trong khu
vực, và có thể được gọi là « quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện ».
Theo
ông Vuving, Washington và Hà Nội đang tiến đến hướng này. Tuyên bố về
đối tác toàn diện Mỹ-Việt năm 2013 đề ra việc hợp tác trong nhiều lãnh
vực, từ quan hệ ngoại giao cho đến kinh tế thương mại ; từ công nghệ,
giáo dục đến quốc phòng và an ninh ; từ văn hóa, thể thao, du lịch cho
đến di sản chiến tranh ; từ môi trường, y tế đến vấn đề nhân quyền.
Trước thách thức ngày càng lớn từ Trung Quốc, quan hệ đối tác này cần
được đào sâu thêm, nâng cấp lên mức độ chiến lược, giúp Hoa Kỳ và Việt
Nam đối mặt được với thử thách của thời đại.
Khi nói chuyện với đại diện thương mại Mỹ Robert Lighthizer hôm 20/5 tại Hà Nội, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói : « Tôi mong rằng Hoa Kỳ tiếp tục duy trì sự hiện diện trong khu vực ». Chỉ 5 năm trước đây, đó là điều mà các lãnh đạo Việt Nam chỉ nghĩ trong đầu mà không nói ra.
Chuyên
gia Alexander Vuving kết luận, muốn thành công trong đối sách với Việt
Nam, Hoa Kỳ cần phải thực hiện ba mục tiêu trên : một hiệp định thương
mại đầu tư cho tương lai, buộc Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế
trong vấn đề Biển Đông, và hoàn thành liên minh Mỹ-Việt, làm vô hiệu hóa
ưu thế của Bắc Kinh tại Đông Nam Á. Đó cũng là những gì mà ông Nguyễn
Xuân Phúc có thể bàn thảo tại Washington trong chuyến đi này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét