Nguồn: “Disorder Under Heaven:
America and China’s Strategic Relationship,” The Economist, 22/04/2017.
Sau bảy thập niên bá quyền ở châu
Á, giờ đây Mỹ phải thích ứng với một Trung Quốc ngày một lớn mạnh. Liệu chính
quyền Donald Trump có làm được điều đó hay không? Lần cuối cùng Trung Quốc tự cho
là mình lớn mạnh như cách mà đất nước này tự nhận ngày nay là khi Abraham
Lincoln còn làm chủ Nhà Trắng. Ở thời điểm đó, bất chấp bằng chứng ngày càng
tăng về sự cướp phá của phương Tây, hoàng đế Trung Quốc vẫn bám vào niềm tin từ
xa xưa rằng Trung Quốc thống trị thiên hạ, một trật tự thế giới của riêng mình.
Trung Quốc chưa bao giờ có đồng minh theo cách hiểu của phương Tây, mà chỉ có các quốc gia triều cống cho mình để đổi lấy giao thương. Hoàng đế Trung Quốc đã viết cho Lincoln rằng cả Trung Quốc lẫn “các ngoại bang” tạo nên “một gia đình, không có khác biệt”.
Ngày nay, trải qua một thế kỷ rưỡi
với sự chiếm đóng của đế quốc phương Tây, tình trạng lộn xộn của nền cộng hòa,
sự cướp bóc của loạn sứ quân, cuộc xâm lược của Nhật Bản, cuộc nội chiến, biến
động cách mạng và gần đây hơn là sự tăng trưởng kinh tế phi thường, Trung Quốc
một lần nữa tự cảm nhận vị thế của một cường quốc. Nhưng lần này, Trung Quốc đã
làm được điều đó trong một thế giới hoàn toàn khác: một thế giới do Mỹ dẫn dắt.
Trong ba phần tư thế kỷ, Mỹ đã là thế lực bá quyền ở Đông Á, sân sau của Trung
Quốc trong lịch sử.
Nhưng giờ đây, không thể phủ nhận
là Trung Quốc đã trở lại. Những tòa tháp mới đã thay đổi đường chân trời ở cả
những thành phố xa xôi nhất. Một mạng lưới tàu cao tốc siêu hiện đại, chỉ trong
một vài năm ngắn ngủi, đã thu hẹp một quốc gia có kích cỡ tương đương với một lục
địa. Sức mạnh mới của Trung Quốc nằm ở sản lượng kinh tế gia tăng gấp 20 lần kể
từ cuối những năm 1970, khi các nhà lãnh đạo thực dụng của nước này bắt đầu cải
cách theo định hướng thị trường. Cũng trong thời gian đó, số dân Trung Quốc sống
trong tình trạng nghèo cùng cực, theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới, đã giảm
xuống còn 80 triệu người, một phần mười con số trước đây. Trung Quốc là quốc
gia thương mại lớn nhất và là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau Mỹ. Hầu như
không có nước nào trên thế giới không để tâm tới Trung Quốc, bất kể với tư cách
là nguồn cung hàng tiêu dùng hay là nơi tiêu thụ hàng hóa cơ bản, tư liệu sản
xuất và đầu tư.
Dựa trên tất cả những điểm này,
Trung Quốc muốn – và xứng đáng có – một vai trò lớn hơn ở Đông Á cũng như trong
trật tự toàn cầu. Mỹ phải dành chỗ cho Trung Quốc. Nhưng nhiệm vụ này đòi hỏi cả
trí tuệ lẫn sự cân bằng tinh tế giữa sự cứng rắn và mềm dẻo của cả hai bên. Chỉ
dấu đầu tiên của những gì chúng ta mong đợi được thể hiện tại hội nghị thượng đỉnh
giữa Tập Cận Bình và Donald Trump vào ngày 6 và 7 tháng 4 ở Mar-a-Lago, khu nghỉ
dưỡng sân gôn của Tổng thống Mỹ ở Florida. Dù không nhiều nội dung được thảo luận,
Trump đã ca ngợi mối quan hệ song phương giữa hai nước là “nổi bật” còn Tập thì
tuyên bố có “cả ngàn lý do để hoàn thiện mối quan hệ Trung-Mỹ”. Không ai đề cập
tới việc Mỹ vừa phóng tên lửa hành trình vào một căn cứ không quân của Syria,
hay về việc áp đặt thuế quan sắp tới.
Bất chấp sự thân mật bề ngoài tại
hội nghị thượng đỉnh, hai nước có cách nhìn rất khác nhau. Hệ thống chính trị vừa
quan liêu vừa chuyên chế của Trung Quốc đã góp phần phát triển kinh tế ở nước
này, nhưng lại khác xa với quan niệm của Mỹ về dân chủ. Giới hoạch định chính
sách Mỹ vẫn luôn coi các giá trị dân chủ tự do và sự chú trọng vào nhân quyền
là những nhân tố giúp chính danh hóa và củng cố trật tự thế giới. Còn giới hoạch
định chính sách Trung Quốc lại xem đó là âm mưu của phương Tây nhằm thúc đẩy kiểu
cách mạng màu từng lật đổ các chế độ chuyên chế Xô-viết cũ, và có thể sẽ cố gắng
làm điều tương tự với Trung Quốc.
Các chiến lược gia Trung Quốc cho
rằng các lực lượng quân đội đang nhanh chóng hiện đại hóa của đất nước là thiết
yếu đối với việc bảo vệ tuyến đường biển vốn là nền tảng của sự phồn thịnh và
an ninh quốc gia. Họ cho rằng một lực lượng hải quân mạnh là cần thiết để kiềm
chế các đối thủ tiềm năng khỏi bờ cõi và ngăn chặn họ chiếm đoạt các đảo mà
Trung Quốc chiếm đóng. Họ cũng ngờ rằng sự hiện diện quân sự quy mô lớn của Mỹ ở
khu vực châu Á-Thái Bình Dương là nhằm kiểm soát sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Trái lại, các chiến lược gia Mỹ
cho rằng họ buộc phải có mặt trong khu vực bởi sức mạnh cứng của Trung Quốc
đang khiến các bạn bè của Mỹ tại Đông Á và Đông Nam Á lo ngại. Trong vài năm gần
đây, Trung Quốc đã thách thức Nhật Bản trên quần đảo Senkaku (mà người Trung Quốc
gọi là quần đảo Điếu Ngư) do Nhật Bản kiểm soát và tiến hành các công trình xây
dựng dày đặc để dựng căn cứ và đường băng trên các đảo đá và rặng san hô đang
tranh chấp ở Biển Đông. Các chiến lược gia Mỹ nghi ngờ Trung Quốc muốn biến
vùng biển rộng lớn này thành cái hồ của mình; và nói rộng hơn là tìm cách thống
trị khu vực Đông Á và đảo lộn trật tự hiện thời.
Một tình huống tiến thoái lưỡng nan
Mỹ từ lâu đã tìm cách ngăn cản bất
cứ cường quốc nào nắm bá quyền ở châu Á, trong khi Trung Quốc lại muốn kiềm chế
các đối thủ tiềm năng ra khỏi bờ biển của họ. Bằng cách nào đó, hai nước phải
tìm cách đáp ứng các mục tiêu chủ đạo của nhau, như Henry Kissinger đã giải
thích trong cuốn sách kinh điển của ông về nghệ thuật quản lý nhà nước, World
Order (Trật tự thế giới). Hòa bình tùy thuộc vào kết quả này.
Nền hòa bình đó không thể xem là
điều hiển nhiên. Trong phần lớn Đông Á, lịch sử vẫn chưa ngã ngũ. Đài Loan, nơi
phe theo chủ nghĩa dân tộc chạy trốn sau thất bại trong cuộc nội chiến Trung Quốc
năm 1949, là một nền dân chủ hòa bình và đang lớn mạnh. Nhưng Đảng Cộng sản
Trung Quốc coi sứ mệnh thiêng liêng của họ là đưa Đài Loan trở lại đúng khuôn nếp
của mẫu quốc, và bảo lưu quyền sử dụng vũ lực để làm điều này. Sự giám hộ của Mỹ
đối với hòn đảo này chính là để đảm bảo Trung Quốc không dám làm điều đó. Nhưng
khi Trung Quốc phát triển và cam kết của Mỹ có vẻ dần suy yếu, khả năng sai lệch
trong tính toán cũng có thể tăng lên. Ít lâu sau khi đắc cử, Trump dường như thậm
chí còn nghi ngờ sự ủng hộ của Mỹ với “chính sách một Trung Quốc” – Trung Quốc
luôn một mực khẳng định Đài Loan là một phần của nước này.
Một điểm nóng sắp tới có nguy cơ
bùng nổ trong khu vực là bán đảo Triều Tiên, vốn bị chia cắt từ cuối Thế chiến
II. Bắc Triều Tiên, dưới sự thống trị của một gia đình mafia đến bây giờ đã là
thế hệ thứ ba, có nền kinh tế suy sụp và một lực lượng quân đội được đào tạo
kém. Nhưng nước này đã đổ tiền vào các chương trình hạt nhân, đe dọa Hàn Quốc,
khiến Nhật Bản lo lắng, và chẳng bao lâu nữa cũng sẽ đặt ra một mối đe dọa đối
với Mỹ. Bắc Triều Tiên chọc giận các nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại thấy cần
phải thể hiện sự đoàn kết với một đồng minh cũ để chống lại Mỹ trong cuộc chiến
đẫm máu do Bắc Triều Tiên khơi mào năm 1950. Trung Quốc thà có một Bắc Triều
Tiên có vũ khí hạt nhân dưới quyền Kim Jong Un còn hơn một nhà nước thất bại đẩy
hàng triệu người tị nạn tuyệt vọng vượt biên sang Trung Quốc. Điều khiến Trung
Quốc lo lắng hơn cả là viễn cảnh một Triều Tiên dân chủ, thống nhất với quân đội
Mỹ kế bên. Ở Mar-a-Lago, Trump đã hỏi Tập về những ý tưởng đối phó với mối đe dọa
từ Bắc Triều Tiên, nhưng vụ phóng tên lửa của Mỹ vào Syria đã cho thấy rõ ràng
Mỹ có thể tự mình đối đầu với Bắc Triều Tiên. Xử lý thái độ hiếu chiến của Kim
– và sự sụp đổ cuối cùng của chế độ – sẽ là một phép thử lớn đối với sự hợp tác
của hai cường quốc này.
Tuy vậy, xung đột giữa Trung Quốc
và Mỹ không phải là tất yếu. Cả hai đều muốn tránh điều đó và do đó có thể điều
chỉnh. Truyền thống hợp tác của hai nước ngày một củng cố qua bốn thập niên
Trung Quốc cải cách thị trường cũng giúp ích phần nào và điều này khó có thể thực
hiện được nếu không có sự bảo đảm an ninh của Mỹ đối với môi trường bên ngoài
Trung Quốc. Hợp tác Mỹ-Trung cũng là mối quan hệ kinh tế song phương quan trọng
nhất trên thế giới ngày nay, với kim ngạch thương mại hàng năm lên tới 600 tỷ
đô la Mỹ và tổng đầu tư của hai nước vào nền kinh tế của nhau xấp xỉ 350 tỷ đô
la Mỹ.
Trung Quốc không hăng hái truyền
bá tư tưởng hay xuất khẩu cách mạng, hay có bất cứ lo lắng nào về ý thức hệ đối
với trật tự hiện nay, và chính điều này khiến Trung Quốc bực bội bởi nước này
không có tiếng nói lớn hơn trong việc điều hành trật tự này. Đảm bảo một vai
trò lớn hơn của Trung Quốc có lẽ là sứ mệnh chính của Tập, nhà lãnh đạo tối cao
của Trung Quốc kể từ năm 2012. Tập đã tích lũy thêm quyền lực cho bản thân, nhiều
hơn bất cứ lãnh đạo nào kể từ thời Đặng Tiểu Bình, và bây giờ đang cẩn trọng
đưa ra một mô hình lãnh đạo toàn cầu lớn hơn mà các lý thuyết gia của đảng đang
bắt đầu gọi là “giải pháp Trung Quốc”. Một mặt, điều này liên quan tới những vấn
đề thiết thực như đầu tư vào Trung Á để giảm đói nghèo. Mặt khác, mô hình này
thách thức sự thống trị của Mỹ. Như Tập phát biểu trong một hội nghị hồi tháng
2, Trung Quốc nên “dẫn dắt an ninh quốc tế” hướng tới một “trật tự thế giới mới
đúng mực và duy lý hơn”. Kiểu phát ngôn này gợi nhớ tới những phẩm chất của đế
quốc Trung Hoa xa xưa. Nhưng cho dù trước đây từng thống trị cả thiên hạ thì giờ
đây Trung Quốc sẽ phải chấp nhận đơn thuần nó chỉ là một siêu cường trong những
siêu cường khác. Về phần mình, Mỹ chưa bao giờ nhường lại nhiều ảnh hưởng và
quyền lực như nó có thể sẽ phải làm với Trung Quốc trong tương lai.
Mối quan hệ vốn đã căng thẳng lại
càng trở nên đáng ngại hơn khi Trump đắc cử Tổng thống. Trong bảy thập niên, đại
chiến lược của Mỹ vẫn dựa vào ba trụ cột: thương mại rộng mở, liên minh mạnh mẽ,
và thúc đẩy các giá trị nhân quyền và dân chủ. Các bạn bè của Mỹ ở châu Á chưa
rõ mức độ sẵn sàng gìn giữ ba trụ cột này của Trump, nếu xét tới sự khinh thị của
ông đối với quá trình ngoại giao, tính cách đặc thù của một người theo chủ
nghĩa bảo hộ và một định nghĩa hẹp hòi “nước Mỹ trên hết” về lợi ích quốc gia.
Theo Michale Fullilove, Viện trưởng Viện Lowy, một viện nghiên cứu chính sách ở
Sydney, Trump là “một người không tin vào trật tự tự do toàn cầu và hoài nghi về
các liên minh. Và ông ta phải lòng các nhà chuyên chế.”
Chiến thắng của Trump là một cú sốc
lớn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Họ không ưa sự khó đoán và có lẽ thích
Hillary Clinton hơn, con người ghê gớm mà họ biết. Điều này cũng diễn ra vào một
thời điểm bất lợi cho Trung Quốc. Tập đang tập trung cho Đại hội Đảng Cộng sản
năm năm một lần vô cùng quan trọng vào cuối năm nay. Tập có vẻ ra sức củng cố
quyền lực trong bối cảnh bong bóng tín dụng đáng lo ngại và tăng trưởng kinh tế
chậm lại đột ngột từ mức đỉnh 10% một năm xuống còn 6,5%.
Đa phần Trung Quốc che dấu sự lo
ngại về Trump đằng sau sự thận trọng có tính toán kỹ lưỡng. Các nhà lãnh đạo
Trung Quốc đã nói với Kevin Rudd, cựu thủ tướng Australia và là người am tường
về Trung Quốc, trích dẫn một trong vô số câu thành ngữ tiếng Trung: “Dĩ bất biến
ứng vạn biến.” Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc đã quyết định sẽ chờ đợi và xem
xét tình hình. Nhưng ở hậu trường, họ vẫn luôn cố gắng nỗ lực để gây ảnh hưởng
lên Trump, làm việc chủ yếu qua Jared Kushner, con rể của Trump, một nhà đầu tư
bất động sản có nhiều mối quan hệ với Trung Quốc.
Người Trung Quốc cũng nhanh chóng
hiểu ra phương thức giao dịch của tân tổng thống Mỹ nên đã cử Jack Ma, ông chủ
Alibaba, một người khổng lồ trong ngành thương mại điện tử, tới gặp Trump. Jack
Ma cam kết công ty của mình có thể tạo ra một triệu việc làm tại Mỹ. Ngay sau
đó các hồ sơ đăng ký nhãn hiệu để bảo vệ thương hiệu Trump tại Trung Quốc vốn
chờ đợi mòn mỏi ở các tòa án của nước này trong nhiều năm bỗng lập tức được cấp
phép. Nguyên nhân và hệ quả vốn không thể tách rời, nhưng Trump chắc chắn đã hạ
giọng so với luận điệu chống Trung Quốc của mình trong thời gian trước cuộc bầu
cử.
Nhìn vào vực thẳm
Tuy nhiên, những bất định sâu sắc
muôn thuở trong mối quan hệ hai nước vẫn còn đeo đẳng, nhất là trong lĩnh vực
thương mại, điều mà suốt ba thập niên qua đã làm nền tảng cho quan hệ hai nước.
Trump có vẻ không coi thương mại là một thứ đôi bên đều có lợi mà là một trò
chơi có tổng bằng không, và cũng không để tâm tới hệ thống thương mại đa phương
thời hậu thế chiến. Một trong những điều đầu tiên mà Trump thực hiện sau khi nhậm
chức là rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định
thương mại tự do giữa 12 nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương (mặc dù
không bao gồm Trung Quốc) – một đòn giáng lớn lên vai trò kinh tế của Mỹ ở châu
Á.
Nói rộng hơn, quan điểm về thế giới
của một số cố vấn cho Trump xoay quanh một kỳ vọng kiểu chỉ có thiện và ác về
xung đột, khẳng định rằng Trung Quốc kiên quyết cạnh tranh chiến lược với Mỹ đến
mức xung đột vũ trang là không thể tránh khỏi, và lập luận rằng cách tốt nhất để
bảo vệ lợi ích quốc gia là chi nhiều hơn cho quân đội và ít hơn cho ngoại giao.
Những tiếng nói này không chi phối hoàn toàn các tranh luận nội bộ về mối quan
hệ chiến lược với Trung Quốc, cũng như trong lĩnh vực thương mại. Khi bản báo
cáo đặc biệt này được ấn hành, một hướng tiếp cận khác đối với thương mại, xoay
quanh một chủ nghĩa đa phương mạnh mẽ, đang thắng thế. Trong khi đó, Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ James Mattis, trong chuyến công tác đầu tiên tới châu Á vào đầu
tháng 2, đã kêu gọi thận trọng khi thách thức các công trình xây dựng của Trung
Quốc trên Biển Đông bằng vũ lực quân sự, và nhấn mạnh sự ưu tiên ngoại giao hơn
là hành động quân sự khi giải quyết những khác biệt.
Mattis, một cựu tướng có năng lực
toàn diện, được những nhân vật dày dặn kinh nghiệm của Washington gọi là một
trong số hiếm hoi “những người trưởng thành” trong chính quyền Trump. Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ Rex Tillerson, nguyên là một ông chủ ngành dầu khí, cũng nằm trong
số đó, mặc dù đã có nhiều câu hỏi dấy lên quanh đường lối ngoại giao châu Á của
ông. Và mặc dù mọi chính quyền mới đều cần có thời gian để lấp đầy những ghế trống,
những vị trí khuyết trong đội ngũ chính sách đối ngoại của Trump, đặc biệt là địa
bàn châu Á, thật đáng báo động. Ngoài ra, gần như phần lớn các chuyên gia châu
Á giàu kinh nghiệm của Đảng Cộng hòa, những người làm việc trong các viện
nghiên cứu chính sách, các trường đại học hay trong khối tư nhân trong nhiệm kỳ
của Obama, đã thề trước cuộc bầu cử rằng họ sẽ không bao giờ phục vụ dưới quyền
Tổng thống Trump. Một số sau đó đã nén lòng tự ái và xích lại gần hơn với chính
quyền mới, nhưng các tay chân trung thành của Trump sẽ nhớ rất dai những lời chỉ
trích ông chủ của họ.
Nhiều nhà quan sát vẫn hy vọng rằng
một khi chính quyền hỗn loạn bất thường này đi vào ổn định, nó sẽ quay trở lại
một chính sách dựa trên bảy thập niên kinh nghiệm của Mỹ ở châu Á. Nhưng điều
đó chưa thể chắc chắn. Một số thành viên chủ chốt của chính quyền vẫn giữ quan
điểm mâu thuẫn về chính sách của Mỹ tại châu Á. Có lẽ điều đó phản ánh sự bất đồng
lớn hơn của Mỹ về những vai trò và trách nhiệm toàn cầu. Tuy vậy, bản thân Tổng
thống Trump có vẻ như không nhận thức được sự thiếu hụt một chiến lược toàn diện
của Mỹ ở châu Á, và vấn đề này có thể sẽ còn dai dẳng. Một chuyên gia về châu Á
của Đảng Cộng hòa từng phục vụ dưới quyền Ronald Reagan và George H.W. Bush lý
giải rằng “Tôi không thấy được sự tiếp thu của Trump. Vì thế tôi không mong đợi
điều gì tốt đẹp hơn.”
Giữa tất cả những sự bất định về
chính sách của Trump ở châu Á, hai rủi ro chính đối với khu vực này lại có vẻ gần
như mâu thuẫn. Thứ nhất, sau tuần trăng mật dạo đầu với các nhà lãnh đạo Trung
Quốc, lập trường ngày càng hung hăng của chính quyền Mỹ mới đã khiến Trung Quốc
nổi giận trong khi không thể trấn an các bạn bè của Mỹ ở châu Á. Thứ hai là
chính sách của Mỹ ở châu Á đang trở nên hời hợt và tách rời, một lần nữa khiến
các bạn bè châu Á của Mỹ lo lắng và có lẽ còn khiến Trung Quốc bạo gan hơn. Những
hệ quả trong cả hai trường hợp có thể là như nhau – các động lực quyền lực đang
thay đổi đòi hỏi sự điều chỉnh nhanh chóng, và có nguy cơ gây bất ổn và thậm
chí là hỗn loạn trong khu vực. Chúng ta hy vọng điều tốt đẹp nhất, nhưng hãy
chuẩn bị sẵn sàng cho tình cảnh thiên hạ đại loạn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét