Hà Tường Cát/Người Việt (tổng hợp)
Tổng Thống Donald Trump. (Hình: Mark Wilson/Getty Images)
Người ta đã có thể bắt đầu hiểu rõ hơn về chính sách đối ngoại
của Tổng Thống Donald Trump sau hơn hai tuần nhậm chức, và chắc chắn là không
giống như dự đoán qua những gì ông từng nói trước kia. Sự kiện đó là tự nhiên, vì từ trước đến nay, tầm nhìn của tất
cả các tổng thống Mỹ khi vào Tòa Bạch Ốc đều khác những gì nghĩ hay nói trong
thời gian tranh cử. Ông Trump không thoát ra ngoài quy luật ấy, thể hiện bằng sự
sửa đổi và uyển chuyển trong một số chủ trương đối ngoại.
Thoạt đầu, hành động để chứng tỏ ý chí chuyển đổi hoàn toàn
thực trạng và trật tự nước Mỹ, như lời hứa khi tranh cử, ông Trump đã có một số
quyết định cùng hành động gây ra rắc rối hơn là đạt tới kết quả. Đó là vụ tổng
thống Mexico hủy bỏ chuyến thăm Tòa Bạch Ốc đã dự định và sắc lệnh hạn chế nhập
cảnh Mỹ bị tòa kháng án phán quyết tạm ngưng thi hành.
Qua tuần lễ thứ nhì, Tổng Thống Trump có những thay đổi
trong chính sách ngoại giao. Dấu hiệu quan trọng nhất về sự rời khỏi chủ trương
cô lập hóa và cứng rắn là việc ông Trump đấu dịu với ông Tập Cận Bình và khẳng
định Mỹ duy trì chính sách “Một Trung Quốc.”
Một tín hiệu đáng chú ý khác là ông Trump cũng thay đổi thái
độ đối với Israel. Ban đầu, ông tỏ ra là người mạnh mẽ bênh vực Thủ Tướng
Benjamin Netanyahu trong các vấn đề thành lập những khu định cư của dân Do Thái
và chuyển tòa đại sứ Mỹ về Jerusalem.
Nhưng bây giờ, ông Trump nhắc nhở Israel là việc phát triển
những khu định cư “không đóng góp cho tiến trình hòa bình.” Ông cùng các cố vấn
quan tâm đến ý kiến của các nhà lãnh đạo Ả Rập như Jordan, Saudi Arabia, và có
vẻ quay trở về đường lối của các tổng thống tiền nhiệm từ Bill Clinton qua
George W. Bush đến Barack Obama.
Không như lời ông Trump đã tuyên bố trong thời gian tranh cử
là sẽ xóa bỏ thỏa hiệp nguyên tử mà chính quyền Obama và các cường quốc đã ký kết
với Iran, các cố vấn Tòa Bạch Ốc nói với bà Federica Mogherini, phó chủ tịch
kiêm ủy viên đối ngoại/an ninh Liên Âu, là Mỹ có thể vẫn hoàn toàn tôn trọng thỏa
hiệp.
Những cuộc hội đàm của ông Trump với Thủ Tướng Shinzo Abe của
Nhật và Thủ Tướng Justin Trudeau của Canada cũng cho thấy ông Trump hiểu rằng
nước Mỹ ở trong thế cần đến các đồng minh, chứ không dễ dàng đòi hỏi Âu Châu và
Nhật “phải chịu chia phí tổn nếu muốn duy trì các hiệp ước liên phòng thủ.”
Khi chưa nhậm chức, hồi Tháng Mười Hai năm ngoái, cuộc điện
đàm giữa ông Donald Trump và bà Thái Anh Văn, tổng thống Đài Loan, gây sôi nổi
trong dư luận thế giới. Người ta dự đoán Mỹ thay đổi chính sách, cúng rắn với
Trung Quốc và thậm chí có thể sẵn sàng đi đến chiến tranh như sự mong đợi của một
số phần tử diều hâu hiếu chiến. Tất cả những suy đoán ấy hầu như đã bỏ qua thực
tế về vai trò của Trung Quốc đối với nước Mỹ trong mối quan hệ chính trị, kinh
tế và quốc tế.
Cuộc điện đàm hôm Thứ Năm tuần trước do Tổng Thống Donald
Trump chủ động gọi cho Chủ Tịch Tập Cận Bình đã xóa tan lập luận hoang tưởng về
thế đối đầu giữa hai cường quốc. Ông Jared Kushner, chồng cô Ivanka Trump, con
rể của Tổng Thống Trump, và cũng là cố vấn của ông, là người đã dàn xếp chuyện
này, sau khi đến gặp Đại Sứ Thôi Thiên Khải tại tòa đại sứ Trung Quốc ở
Washington, DC. Ông Trump khẳng định với ông Tập là nước Mỹ tôn trọng chính
sách “Một Trung Quốc” đã thi hành từ 48 năm qua.
Không nên lầm lẫn “chính sách Một Trung Quốc” và “nguyên tắc
Một Trung Quốc” của chính quyền Cộng Sản. Theo Bắc Kinh, Trung Quốc là một đất
nước thống nhất về lãnh thổ bao gồm lục địa, đảo Đài Loan chỉ là một tỉnh còn
do “những phần tử phản động” kiểm soát từ năm 1949. Họ không bao giờ thừa nhận
nhà cầm quyền Đài Loan là một chính phủ.
Về mặt công pháp quốc tế và ngoại giao, các quốc gia trên thế
giới chỉ công nhận có một chính quyền hợp pháp của Trung Quốc – hoặc là chính
quyền ở Bắc Kinh của Cộng Sản hoặc là chính quyền ở Đài Bắc của Đài Loan. Từ thời
kỳ Chiến Tranh Lạnh, Mỹ chỉ công nhận chính quyền Đài Loan, không công nhận
chính quyền Cộng Sản, và bằng quyền phủ quyết ở Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc,
ngăn cản không cho Trung Quốc trở thành thành viên Liên Hiệp Quốc.
Chính quyền Tổng Thống Richard Nixon ký kết thông cáo chung
Thượng Hải năm 1972, nhìn nhận Đài Loan là một phần của Trung Quốc, nhưng không
thay đổi chính sách. Tới năm 1979, Tổng Thống Jimmy Carter cắt đứt quan hệ ngoại
giao với Đài Loan và chỉ công nhận một nước là Trung Quốc.
Chính sách ấy có nhiều điểm mập mờ, tuy nhiên, được minh định
rằng Đài Loan không là một quốc gia có chủ quyền, Trung Quốc không có chủ quyền
ở Đài Loan, và Mỹ “thừa nhận” chính sách “Một Trung Quốc” đối với cả hai phía
bên eo biển Đài Loan. Do Mỹ chỉ bang giao chính thức với Bắc Kinh nên không có
tòa đại sứ ở Đài Loan, liên lạc ngoại giao với đảo quốc này chỉ là qua các phái
bộ liên lạc.
Sau cuộc điện đàm với bà Thái Anh Văn, Tổng Thống Tân Cử
Donald Trump lúc đó nói là “sẽ thương thuyết về vấn đề Trung Quốc và Đài Loan.”
Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc khẳng định là sẽ không có thương lượng nào về bất
cứ vấn đề gì với Mỹ, nếu Mỹ không tôn trọng điều kiện tiên quyết về chính sách
“Một Trung Quốc,” Tổng Thống Trump đã phải đồng ý chấp nhận đấu dịu.
Sự chấp nhận ấy không có nghĩa là chính sách bang giao với
Trung Quốc đã được minh định. Còn rất nhiều vấn đề mà Mỹ cần giải quyết với
Trung Quốc, bao gồm từ vấn đề kinh tế, tiền tệ, mậu dịch đến chuyện Bắc Hàn, Biển
Đông.
Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là Mỹ hay Trung Quốc đều
không thể có một lập trường cứng nhắc định sẵn khi phải đối diện với thực tế.
Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét