Nguyễn Đình Cống
Các trí thức VN đã đi buôn lậu và làm cửu vạn quốc tế như thế
nào.
1- KHUNG CẢNH
Đó là thời kỳ từ năm 1976 đến năm 1990. Từ 1976, sau một thời
gian ngắn kết thúc chiến tranh, thống nhất lãnh thổ, làm cho hàng chục triệu
người vui sướng, được nhận họ, nhận hàng thì đất nước rơi vào tình cảnh kiệt quệ.
Miền Bắc phong trào hợp tác xã nông nghiệp đã làm bần cùng hóa nông dân và xã hội.
Miền Nam công cuộc cải tạo tư sản đã phá nát mọi doanh nghiệp.
Khắp nơi cấm chợ
ngăn sông. Rồi đem quân qua Campuchia và chiến tranh biên giới phía Bắc. Các
trí giả thi nhau phán đoán lúc nào tình hình kinh tế sẽ xuống đến tận đáy để rồi
từ đó ngoi lên. Người này đoán 1980, kẻ khác cho là đến 1982. Nhưng rồi đến
1984 sự khủng hoảng vẫn tiếp diễn. Mọi người phải lo tự cứu trước khi Trời cứu.
Người ta làm đủ mọi việc có thể kiếm được miếng ăn và nghĩ ra nhiều mưu mẹo để
vá sửa quần áo rách. Nhiều gia đình nuôi lợn trong khu vệ sinh tại các tầng cao
của các khu nhà tập thể. Bà vợ của một giáo sư tâm sự: chồng ốm không lo bằng lợn
ốm.
Trong tình hình bi đát sắp chết chìm đến nơi thì một vài chiếc
phao cứu sinh xuất hiện, trong đó có khoán hộ trong nông nghiệp và xuất khẩu
lao động. Với các lao động phổ thông thì sang Liên xô và các nước XHCN Đông Âu.
Với các trí thức như bác sĩ và thầy giáo thì đi Châu Phi làm chuyên gia y tế và
giáo dục (tại các nước Angiêri, Cônggô, Ănggôla, Mađagasca). Gia đình tôi, con
gái đi lao động ở Bungari (1985-88), tôi đi làm chuyên gia giáo dục tại Angiêri
(1986-89). Bài này viết về một số chuyên gia đó. Viết theo một số ghi chép và
trí nhớ còn giữ lại được sau hơn một phần tư thế kỷ.
Thời gian đầu, từ năm 1982, việc đi chuyên gia Châu Phi là
quyền lợi kết hợp nghĩa vụ. Mọi việc về hợp đồng, chế độ, nghĩa vụ, tổ chức,
tuyển chọn, v.v. đều do Phòng Hợp tác chuyên gia của Bộ lo. Công việc và sinh
hoạt của chuyên gia tại mỗi nước do một Tùy viên của sứ quán ở nước đó quản lý.
Lương nước ngoài trả tạm thời do chuyên gia giữ, nhưng cuối cùng được bao nhiêu
đều phải nộp vào quỹ ở Sứ quán, do người của Bộ Tài chính quản ( * ). Tiền
lương mỗi chuyên gia được hưởng do Nhà nước qui định, gồm 2 phần. Một phần bằng
tiền địa phương, vừa đủ tiêu dùng hàng ngày ở mức trung bình. Một phần nữa được
thanh toán bằng ngoại tệ với mức 80 đến 100 đô la mỗi tháng. Những chuyên gia
như thế được gọi là “chuyên gia nghĩa vụ”. Chính phủ dùng số tiền thu được từ
lương của chuyên gia để góp vào việc trả nợ, nghe nói rằng đó là nợ vay của một
số nước Châu Phi để chi dùng cho cuộc chiến tại Campuchia.
Sau này, từ 1990 trở đi một số khá đông chuyên gia không còn
phải làm nghĩa vụ nữa, lương nước ngoài trả bao nhiêu họ được hưởng gần trọn vẹn
(phải đóng thuế thu nhập và một vài loại phí dịch vụ).
Trong tình trạng kiệt quệ của thời kỳ những năm 80 thế kỷ
trước, mỗi gia đình có thêm được 100 đô la mỗi tháng là đã thoát được cảnh túng
quẩn, nhưng hình như các chuyên gia nghĩa vụ không có ai thỏa mãn với thu nhập
đó mà đều tìm cách kiếm thêm bằng nhiều cách, chủ yếu bằng buôn lậu và làm cửu
vạn. Mà là buôn lậu và làm cửu vạn giữa các nước, đó là buôn lậu quốc tế, làm cửu
vạn quốc tế theo đúng nghĩa đen. Khi nghe nói các trí thức, trong đó có khá
đông tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư đi buôn lậu và làm cửu vạn thì nhiều người
không tin, cho là chuyện bịa, nhưng thật sự là đúng như vậy. Thì chính tôi và
các bạn bè là các giáo sư, tiến sĩ đều đã buôn lậu và làm cửu vạn như thế.
Ngoài các chuyên gia thì nhiều người Việt có điều kiện đi nước ngoài hoặc từ đó
trở về đều kết hợp buôn bán một thứ gì đó (ngày nay người ta gọi là hàng xách
tay) hoặc làm cửu vạn giữa các nước.
2- BUÔN LẬU SANG CÁC NƯỚC
Định nghĩa: Buôn là việc mua để bán một thứ gì đó nhằm kiếm
tiền. Buôn lậu là buôn một cách lén lút, không khai báo, trốn thuế. Buôn lậu quốc
tế là buôn lậu từ nước này qua nước khác. Như vậy dù chỉ mua vài cái áo, vài
chai rượu, vài tút thuốc lá từ nước này mang sang nước khác bán để kiếm tiền
cũng đúng là buôn lậu quốc tế. Khi nghe đến buôn lậu quốc tế người ta thường
hình dung ra những món hàng hóa có giá vài trăm ngàn đô la, vài triệu đô la trở
lên chứ có ai đi buôn các món hàng chỉ có giá trị vài chục đô. Thế mà các bác
sĩ, các giáo sư VN chủ yếu buôn lậu quốc tế chỉ với các món hàng từ vài chục đến
vài trăm đô, rất ít người, rất ít khi có món hàng đến ngàn đô. Họ buôn lậu chỉ
là kết hợp, là tranh thủ, vừa buôn vừa run sợ. Kết thúc một chuyến mà kiếm được
vài chục đến vài trăm đô tiền lời là mừng vô cùng. Việc kết hợp buôn lậu được
thực hiện theo cả hai chiều đi và về.
Ngoài lần đi đầu tiên và lần về cuối cùng, chuyên gia nghĩa
vụ được phép nghỉ, về nước, mỗi năm một lần. Mỗi lần đi hoặc về thường phải
chuyển máy bay tại một nước Châu Âu. Mỗi lần như vậy họ thường không đi ngay mà
ở lại vài ngày để mua bán hoặc ở lâu hơn để làm cửu vạn. Cũng có lúc họ chuyển
máy bay thêm một lần nữa ở Thái Lan, lúc này họ tranh thủ mua hàng.
Trước mỗi lần đi các chuyên gia cần thu thập thông tin “Sang
nước ấy thì nên mang hàng gì”. Hồi ấy chưa phổ biến điện thoại di động và email
nên thông tin chủ yếu bằng truyền miệng. Ở Liên xô có thể bán quần bò, áo
phông, rượu thuốc Sâm Quy Tinh, kính râm, đồng hồ đeo tay hiệu Seiko của Nhật
hoặc đồng hồ điện tử, v.v. Sang Châu Phi thì mang áo kimono, hàng thổ cẩm, các
đồ thủ công mỹ nghệ như dây chuyền và nhẫn bằng bạc, các tượng nhỏ bằng gốm và
sừng, thậm chí các loại mũ nan, v.v. Cũng có thể mua hàng từ Liên xô và Đông Âu
mang sang Châu Phi như rượu, khăn mu soa, búp bê gỗ, v.v.
Để bán hàng ở Liên xô và Đông Âu chỉ cần liên hệ với một đường
dây người Việt sở tại rồi giao toàn bộ để họ đem bán đến tận tay người mua
dùng. Ở các nước Châu Phi không có sẵn các đường dây như vậy của người Việt, phải
trông cậy vào các mối quan hệ với người địa phương biết buôn bán. Chuyên gia
giáo dục dựa vào gia đình các sinh viên, chuyên gia y tế dựa vào đồng nghiệp hoặc
gia đình bệnh nhân. Thỉnh thoảng một vài nơi cũng xuất hiện một số “cò”. Họ
cũng là chuyên gia, có khả năng buôn bán và quan hệ với dân buôn sở tại. Những
cò này làm môi giới bán hàng và làm dịch vụ lậu đổi tiền (đổi tiền địa phương
ra đô la).
Việc bán hàng phần lớn xảy ra bình thường nhưng thỉnh thoàng
gặp sự cố. Đó là do thông tin đã quá lạc hậu hoặc sơ suất. Một món hàng trước mấy
tháng bán rất chạy, nay bỗng trở nên ế ẩm, hoặc tai hại hơn là bị hải quan phát
hiện, tịch thu hàng và truy cứu trách nhiệm. Điều này các giáo sư đi công tác
hoặc dự hội thảo dễ bị vướng vào hơn là các chuyên gia. Xin kể 2 câu chuyện.
(1) Sao anh giỏi thế
Tháng 6 năm 1987 giáo sư H. được mời sang Liên xô dự hội thảo
khoa học và báo cáo công trình nghiên cứu. Trước khi đi, việc chuẩn bị báo cáo
ông chỉ làm nhoáng trong 2 buổi là xong. Ông để nhiều tâm sức cho việc thu thập
thông tin thị trường, mượn tiền để mua hàng và sắp xếp va li. Ông sang trước 4
ngày. Ba ngày đã trôi qua mà những đường dây ông được giới thiệu đều từ chối nhập
hàng, vì thứ đó hiện nay rất khó bán, các đường dây đều còn và không có mối
tiêu thụ. Ngày thứ tư, bụng cồn cào như lửa đốt. Chưa bán được hàng thì còn tâm
trí nào mà dự hội thảo, nói gì đến báo cáo, báo chồn. Ông bỗng nhớ đến Toàn, một
sinh viên cũ đang làm nghiên cứu sinh. Ông gọi điện thoại và chỉ sau 2 giờ Toàn
đến nhà khách sứ quán. Sau câu chuyện vui mừng thầy trò gặp nhau, ông tỏ ý nhờ
Toàn tìm mối tiêu thụ hàng ông mang sang. Toàn vui vẻ nhận lời, cho rằng việc
đó quá dễ, anh đang rất cần hàng đó. Trước khi đi người quen tính toán cho GS sẽ
bán được khoảng từ 700 đến 750 đô, lãi được gần 200 đô và quan trọng hơn là có
tiền để mua hàng mang trở về. Sau 3 ngày không bán được ông chỉ mong kiếm được
650 đô là quá tốt. Thế mà Toàn không hề hỏi GS định bán bao nhiều, rút ví ra
đưa ngay 800 đô. GS mừng rơi nước mắt. Được tin Toàn nhập hàng của GS, một số
người ở các đường dây đến hỏi Toàn nguồn tiêu thụ, khen Toàn “Sao anh giỏi thế”.
Toàn chỉ vào một đống dưới gầm giường, giải thích: Đấy, hàng của GS mang sang vẫn
còn đấy, dây nào tiêu thụ được thì anh biếu không.
(2) Mất chì nhưng gỡ được chài
Tháng 8 năm 1989, tôi kết thúc nhiệm kỳ chuyên gia 3 năm.
Sau khi về Hà Nội nghỉ hè tôi trở lại Angiêri để làm nốt một số việc và thanh
toán với sứ quán trước khi về hẳn. Tôi bay sang Mascơva, đi tàu hỏa đến Praha để
bay sang Angiê. Ngoài một số hàng mỹ nghệ và kimono mang từ nhà tôi còn mua
thêm ở Praha vài trăm chiếc mu soa. Nhẩm tính, nếu tất cả trót lọt sẽ kiếm được
khoản lời trên 150 đô. Theo lịch, chuyến bay sẽ đến nơi vào 23 giờ 15 và vào 24
giờ Hải quan đổi kíp. Đoán rằng lúc đó nhân viên hải quan chuẩn bị kết thúc kíp
trực, chắc là mỏi mệt, không khám xét kỹ nên tôi không chịu khó ngụy trang chu
đáo. Không ngờ chuyến bay bị trễ, máy bay hạ cánh lúc quá nửa đêm. Đến nơi thì
kíp hải quan mới vừa đến thay, họ đang hăng hái, khám xét kỹ. Thế là tôi bị tạm
giữ toàn bộ số hàng, nhét đầy vào một túi du lịch. Mặc dầu tôi khai đó chỉ là
những thứ tôi mua để làm quà tặng cho bạn bè (thực ra là nói dối), nhưng họ
không tin. Họ cấp cho một biên lai thu giữ để xử lý. Nếu sau 3 tháng mà không
trình bày được lý do chính đáng thì số hàng bị tịch thu. Tạm thời túi du lịch
được giữ trong kho hải quan. Về trường nơi công tác, tôi nhờ các bạn người
Angiêri có quen biết Hải quan xin giùm, nhưng không được. Nếu bị mất toàn bộ số
hàng thì đúng là “mất cả chì lẫn chài”. Nhưng tháng 10 tôi đã làm xong mọi việc
cần thiết và về nước, đã lấy lại được một phần trong số hàng bị giữ, xem như chỉ
mất chì còn giữ được chài (chuyện này rất hay, xin kể sau vì bài đã hơi dài, tạm
dừng).
Các kỳ sau: Buôn lậu từ nước ngoài về Việt Nam; Làm cửu vạn
giữa Đông Âu và Liên xô; Những cái chết bi thương và bí ẩn; Vài chuyện lạ có thật…
( * ) Trong thời gian tôi ở Angiêri, cán bộ sứ quán quản lý
chuyên gia là GS. Nguyễn Xuân Đặng, nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức Bộ Đại học,
nguyên Hiệu phó trường ĐHXD; cán bộ của Bộ Tài chính phụ trách thanh toán thu
nhập và lương của chuyên gia là ông Thái Bá Minh.
N.Đ.C.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét