Tác giả: David Eimer
| Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng
Một cuốn sách mới khẳng
định giới tinh hoa Thái Lan từ lâu đã thao túng hoàng gia vì lợi ích riêng của
họ, để mặc người dân trong giá lạnh.
Thái Lan đã bị cuốn
vào vòng xoáy của hết cơn khủng hoảng chính trị này đến cơn khủng hoảng chính
trị khác trong suốt tám năm qua. Thủ tướng bị lật đổ bởi các tòa án, các cuộc
biểu tình chống lại chính quyền không qua bầu cử dẫn đến bạo lực đẫm máu kéo
dài nhiều tuần trên đường phố Bangkok trong năm 2010, và đã có hai cuộc đảo
chính quân sự, với cuộc đảo chính gần đây nhất diễn ra vào tháng Năm.
Giờ đây, cũng giống
như nước láng giềng Myanmar đang nổi lên sau nhiều thập kỷ bị cai trị bởi nền độc
tài quân sự, Thái Lan, đất nước dựa nhiều vào du lịch, cũng đang được điều hành
bởi một chính quyền quân sự mang cái tên nghe đậm chất Orwell:[1] Hội đồng Quốc
gia vì Hòa bình và Trật tự (NCPO).
Tệ hơn nữa đối với một
quốc gia luôn tự hào về việc được gọi là “Đất nước của những Nụ cười,” Thái Lan
đang bị chia rẽ hơn bao giờ hết. Các tầng lớp trung lưu đô thị, sĩ quan quân đội
cấp cao, phe công chức thủ cựu và lãnh đạo doanh nghiệp đang đối đầu với dân
thường Thái Lan, những người chỉ có thể đứng nhìn chính phủ Pheu Thai họ bầu ra
bị lật đổ bởi các tướng lĩnh quân đội. Làm thế nào mà một đất nước từng được
coi là hình mẫu về sự ổn định và tăng trưởng kinh tế của các nước Đông Nam Á
khác lại ra nông nỗi này?
Cuốn sách mới của
Andrew MacGregor Marshall đổ lỗi một phần cho một người ở Thái Lan mà không ai
được gắn ông với chính trị, hoặc thậm chí là bàn tán công khai về ông: Quốc
vương Bhumibol Adulyadej. Sau 68 năm ngự trên ngai vàng, ông là vị vua tại vị
lâu nhất thế giới. Hình ảnh của ông có ở khắp mọi nơi của Thái Lan, từ biển quảng
cáo tại các sân bay cho tới các bức tường trong những hộp đêm ở Pattaya, bằng
chứng rõ ràng nhất cho việc ông được các thần dân của mình tôn kính gần như một
vị thần ra sao.
Dù thế, đối với
Marshall, Bhumibol chẳng hơn một con bù nhìn của giới tinh hoa quân sự và kinh
doanh là mấy. Cuốn sách với nhiều tiết lộ mới của Marshall lập luận rằng nhà
vua được nâng lên vị trí cao quý của ông một cách có chủ đích để các tầng lớp cầm
quyền truyền thống có thể tiếp tục nắm giữ quyền lực trong khi từ chối dân chủ
đúng nghĩa cho người dân Thái Lan.
Gây nhiều tranh cãi
hơn nữa, Marshall tin rằng cuộc khủng hoảng chính trị những năm gần đây có liên
quan mật thiết đến câu hỏi ai sẽ kế vị vị quốc vương 86 tuổi già yếu mà phần lớn
thời gian trong năm năm qua ông nằm tại bệnh viện. Người kế vị chính thức của
Bhumibol là Thái tử Vajiralongkorn, được chú ý nhiều ở Thái Lan lẫn nước ngoài
bởi hình ảnh ăn chơi hơn là vị thế thái tử của ông.
Vajiralongkorn cũng nổi
tiếng bởi mối quan hệ với Thaksin Shinawatra, nhà tài phiệt và cựu Thủ tướng
lưu vong với những chính sách theo chủ nghĩa dân túy đã khiến ông trở thành anh
hùng đối với người nghèo ở nông thôn, nhưng lại bị phe bảo thủ thù ghét bởi các
cách thức bị cáo buộc là tham nhũng và độc tài của ông. Luận đề của Marshall
cho rằng, viễn cảnh vương triều tiếp theo gần gũi với người đàn ông vốn đã trao
quyền cho một bộ phận cử tri mà giới tinh hoa Thái Lan từ lâu đã phớt lờ là điều
không thể tưởng tượng được. Họ muốn nhìn thấy em gái của thái tử, Công chúa
Sirindhorn, kế vị ngai vàng.
Luận đề được viết với
văn phong rõ ràng, mạch lạc của Marshall gây chấn động mạnh, đặc biệt là khi
Thái Lan có một số luật lệ về tội khi quân nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Chỉ
cần nói chuyện hay viết về nhà vua, hoàng hậu Sirikit, hoặc thái tử – chưa tính
đến việc chỉ trích quyền lực hay vai trò của nhà vua trong chính trường Thái
Lan và xã hội – có thể dẫn đến một án phạt tù. Hai mươi hai người đang bị giam
giữ chờ xét xử tội khi quân.
Không ai biết sức mạnh
của pháp luật về tội khi quân rõ hơn Marshall. Vị nhà báo người Scotland 43 tuổi
từng làm việc 17 năm cho Reuters này đã từ chức vào tháng 6 năm 2011 sau khi cơ
quan này từ chối xuất bản một loạt các bài báo của ông về chế độ quân chủ ở
Thái Lan. Phần lớn thông tin cho những câu chuyện này đến từ hàng trăm điện tín
ngoại giao Mỹ bị rò rỉ qua Wikileaks. Dẫu cho có vợ là người Thái, Marshall đã
không thể quay lại Thái Lan kể từ đó.
Marshall tiết lộ việc
Bhumibol đã nhu nhược và cơ bản là không có quyền lực đến thế nào trong suốt
triều đại của ông. Từ năm 1950 trở đi, ý tưởng về một bậc quốc phụ chăm lo cho
vương quốc của mình với một thái độ nhân từ đã được quân đội đặc biệt thúc đẩy.
Họ làm vậy với sự khuyến khích tích cực từ Washington, nước coi Thái Lan là một
bức tường thành ở Đông Nam Á để chống lại những người cộng sản ở Việt Nam, Lào
và Trung Quốc láng giềng.
Kiểu tuyên truyền này
vẫn tiếp tục đến ngày hôm nay. Kể từ cuộc đảo chính tháng Năm, NCPO đã bắt giữ
hàng chục đối thủ của mình mà không cần xét xử, mạnh tay hơn trong việc đàn
áp tự do báo chí và truyền thông xã hội, trong khi cấm các cuộc tụ họp công cộng
nhiều hơn năm người. Lời biện minh cho những hành động đàn áp này của họ là vì
lợi ích của nhà vua, một ví dụ nữa về việc Bhumibol đã bị thâu nạp (về phe quân
đội) trong cuộc chiến quyết định người điều hành Thái Lan ra sao.
Chẳng còn nghi ngờ gì
nữa, đây là một cuộc nội chiến về mọi mặt, chỉ trừ tên gọi.
Kể từ khi đảng chính
trị đầu tiên của Thaksin, đảng Thai Rak Thai (Người Thái yêu người Thái), giành
được một chiến thắng giòn giã trong cuộc bầu cử năm 2001, ông trùm viễn thông
đã được coi là mối đe dọa lớn nhất của phe bảo thủ Thái Lan. Thaksin là chính
trị gia cấp cao đầu tiên nhận ra rằng chỉ riêng số lượng nông dân ở Đông bắc đất
nước đã đủ đảm bảo họ nắm giữ chìa khóa quyết định ai là người nắm quyền lâu
dài. Ông thay đổi các chính sách của mình để đáp ứng nhu cầu của họ, qua đó khiến
cho đảng Dân chủ đối lập – đảng truyền thống của giai cấp tinh hoa cầm quyền –
gần như không thể nào đắc cử.
Tuy nhiên, các tầng lớp
trung lưu đô thị bị chấn động bởi những cáo buộc tham nhũng tràn lan đặc trưng
cho những năm Thaksin nắm quyền, trong khi những người ôn hòa lại khó chịu bởi
thái độ coi thường nền pháp quyền của ông. Khi Thaksin phát động một cuộc chiến
chống ma túy vào đầu năm 2003, gần 2.500 người đã thiệt mạng chỉ trong ba
tháng.
Đáng lo ngại hơn với
hoàng gia là mối quan hệ ngày càng thân thiết của Thaksin với Vajiralongkorn.
Ông được cho là đã cho thái tử vay tiền, do đó nhận lại thái độ thù địch của
nhà vua. Điều đó chẳng mấy quan trọng đối với Thaksin – chừng nào ông còn giữ
chức thủ tướng và thái tử còn là người thừa kế chính thức. Ralph Boyce Leo, Đại
sứ Mỹ tại Thái Lan từ năm 2004 đến năm 2007, đã nói trong một bức điện tín,
“nhà vua không tồn tại mãi mãi và Thaksin từ lâu đã đầu tư vào tương lai của
thái tử.”
Cuộc đảo chính năm
2006 được tổ chức nhằm kết thúc sự thống trị Thaksin trong chính trường Thái
Lan. Nhưng chính phủ được lập nên bởi quân đội chỉ làm trầm trọng thêm sự chia
rẽ chính trị của đất nước. Phe chống Thaksin được gọi là phe “áo vàng,” một màu
từ lâu đã gắn liền với nhà vua, trong khi phe ủng hộ ông được gọi là phe “áo đỏ.”
Đụng độ tại Bangkok vào năm 2010 giữa các phe nhóm đối đầu và quân đội khiến ít
nhất 90 người thiệt mạng.
Việc quân đội tiếp quản
chính quyền cũng không chấm dứt được ảnh hưởng của Thaksin. Dù cuối cùng nó khiến
ông phải sống lưu vong để tránh những cáo trạng về tội tham nhũng, và đảng Thai
Rak Thai bị tòa án cấm hoạt động chính trị, nhưng Thaksin lại phục hồi ảnh hưởng
một cách nhanh chóng. Một đảng mới, Pheu Thai (Vì nước Thái), được thành lập và
chiến thắng cuộc bầu cử năm 2011, với em gái của ông Thaksin, Yingluck
Shinawatra, làm thủ tướng.
Cuộc đảo chính tháng
Năm đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của đảng Pheu Thái, nhưng tương lai của
Thái Lan là hết sức vô định, và đối với Marshall, điều này sẽ tiếp tục như vậy
cho đến khi nhà vua qua đời. Ngay cả lúc đó, khả năng xảy ra tranh chấp về quyền
kế vị sẽ là một cú sốc lớn đối với người dân vốn đã quen với việc có Vua Bhumibol
trên ngai vàng.
Dù cuốn sách của
Marshall sẽ hoàn hảo hơn nếu có thêm thảo luận về sự chống đối ngày một gia
tăng của những người dân thường đối với phe cầm quyền thủ cựu – di sản lâu dài
nhất của Thaksin trong việc chính trị hóa một phần dân số vốn bàng quan chỉ
trong một thập kỷ – nhưng nó vẫn là một bản phân tích kịp thời về hệ thống
chính quyền rối loạn của Thái Lan.
Đó cũng là một cuốn
sách dũng cảm. Đất nước của những Nụ cười từ lâu đã khéo che đậy những mặt kém
hấp dẫn của mình trước công chúng, cho dù đó là cuộc nổi dậy đang diễn ra ở miền
Nam đưa người Hồi giáo gốc Malay chống lại nhà nước Phật giáo Thái Lan, hay việc
bóc lột các công nhân nhập cư. Marshall đưa ra một sự thật khó nghe về vai trò
chính trị của hoàng gia ở một đất nước mà từ lâu nó đã được phép miễn trừ những
lời chỉ trích. Và đó chính là một thành tựu độc đáo của cuốn sách.
Đây là bài điểm cuốn
sách có tên A Kingdom in Crisis: Thailand’s Struggle for Democracy in the
Twenty-First Century (Vương quốc trong cơn khủng hoảng: Cuộc đấu tranh vì dân
chủ của Thái Lan trong thế kỷ 21) của tác giả Andrew MacGregor Marshall, Nhà xuất
bản Zed Books.
http://nghiencuuquocte.net/2014/11/01/quoc-vuong-thai-lan/#more-4162
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét