Tác giả: GS. Vũ
Minh Giang
Từ lâu Nam Bộ đã là một
bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Vịêt Nam, nhưng do tính chất phức tạp của
lịch sử nên cho đến nay vấn đề chủ quyền lãnh thổ (territorial sovereignty) vẫn
còn có những nhận thức chưa thật đầy đủ. Trên cơ sở trình bày một cách hệ thống
diễn biến lịch sử và phân tích những yếu tố khẳng định tính chất chính đáng,
phù hợp với thông lệ quốc tế của quá trình thụ đắc lãnh thổ phía nam của dân tộc
ta, bài viết này hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và nâng cao
thêm hiểu biết về chủ quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Mặc dù những vướng mắc
về biên giới giữa Việt Nam và Campuchia nhiều khi là những vấn đề cụ thể liên
quan tới đường biên giới hiện tại, nhưng cội nguồn của những vướng mắc đó lại nảy
sinh từ lịch sử, trong đó cơ bản nhất, sâu xa nhất là vấn đề lãnh thổ vùng Nam
Bộ. Có một quan niệm cho rằng vùng đất Nam Bộ từ xưa vốn là lãnh thổ của
Campuchia.
Lập luận chủ yếu (mà
không chứng minh) của quan niệm này là đồng nhất nước Phù Nam ở trung tâm của
vùng hạ lưu sông Mê Kông với nhà nước đầu tiên của người Khmer[1]. Trong một hội
thảo về Bảo tồn di sản văn hoá tổ chức năm 1993 tại thành phố Nara (Nhật Bản),
báo cáo chính thức của Campuchia do ông Vann Molivann, Bộ trưởng Quốc vụ khanh
trình bày trước hội nghị cũng xếp văn minh Phù Nam vào nhóm “dạng thức đặc biệt
của nhóm Khmer”[2]. Để giải quyết thoả đáng vấn đề này không thể không trở lại
xem xét cụ thể nguồn gốc và diễn biến chủ quyền lãnh thổ đối với vùng đất này.
Hiển nhiên, việc xem xét lịch sử chủ quyền phải bắt đầu từ nhà nước Phù Nam.
Vấn đề nước Phù Nam
Căn cứ vào những ghi
chép trong các thư tịch cổ Trung Quốc thì Phù Nam là một quốc gia nằm ở phía
nam của Lâm Ấp (Champa) nghĩa là tương đương với đất Nam Bộ ngày nay[3]. Cũng dựa
vào các thư tịch cổ, các nhà khoa học đã thống nhất nhận định rằng nước Phù Nam
xuất hiện vào khoảng đầu Công nguyên và biến mất vào khoảng thế kỷ thứ VII [4].
Mùa xuân năm 1944 nhà khảo cổ học Pháp Louis Malleret đã tiến hành một cuộc
khai quật có ý nghiã lịch sử ở khu vực gần núi Ba Thê (nay thuộc địa phận xã Vọng
Thê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang). Từ sau cuộc khai quật này bắt đầu xuất hiện
khái niệm văn hoá Ốc Eo và một cách tự nhiên các nhà khoa học đã dễ dàng đi tới
nhận định rằng vấn đề Phù Nam không thể tách rời vấn đề Ốc Eo. Hay nói cách
khác, hoàn toàn có cơ sở khoa học nếu đồng nhất những di vật thuộc văn hoá Ốc
Eo là di tích văn hoá vật thể của nước Phù Nam. Vấn đề này đã được khắng định
trong nhiều tác phẩm và hội thảo khoa học, đặc biệt là hội thảo về Văn hoá Ốc
Eo – Phù Nam do Bộ KH-CN tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh năm 2004, nhân kỷ niệm 60
năm sự kiện phát hiện văn hoá ốc Eo. Các học giả cũng đã khẳng định Ốc Eo là một
nền văn hoá có nguồn gốc bản địa, ít ra là từ thời đại kim khí và trong thời kỳ
cường thịnh nhất, Phù Nam đã phát triển thành một đế chế rộng lớn bao gồm toàn
bộ phần phía nam bán đảo Đông Dương (Nam Bộ của Việt Nam hiện nay, nước
Campuchia, một phần nam Lào), một phần Thái Lan và bán đảo Malaca, nhưng trung
tâm vẫn là vùng đất Nam Bộ.
Một vấn đề có ý nghĩa
quan trọng là xác định chủ nhân của văn hoá ốc Eo. Trước đây, người ta thường
nói mà không chứng minh rằng chủ nhân nền văn hoá này là tổ tiên của người
Khmer. Nhưng dưới ánh sáng của những nghiên cứu mới thì vấn đề không phải như vậy.
Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa Ốc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là
khác biệt với văn hóa Khmer. Những dấu vết của Chân Lạp trên đất Nam Bộ không
thể hiện là sự phát triển liên tục của văn hóa Phù Nam[5]. Về phong tục tập
quán, sử liệu Trung Quốc cũng cho biết rằng tang lễ và hôn nhân của Phù Nam gần
giống với Lâm ấp (tức Champa).
Về mặt lịch sử, các
tư liệu trong thư tịch cổ Trung Quốc cũng phân biệt rất rõ Phù Nam với Chân Lạp
(quốc gia của người Khmer). Sử ký của nhà Tùy chép rằng nước Chân Lạp ở về phía
tây nam Lâm ấp, nguyên là một chư hầu của Phù Nam. Vua nước ấy là Ksatriya
Citrasena đã đánh chiếm và tiêu diệt Phù Nam [6]. Sử ký nhà Đường cũng chép:
“Trong nước [Phù Nam] bấy giờ có thay đổi lớn. Nhà vua đóng đô ở thành Đặc Mục,
thình lình bị nước Chân Lạp đánh chiếm, phải chạy trốn về miền nam, trú ở thị
trấn Na Phất Na”[7]. Những sự kiện được chép trên đây diễn ra vào đầu thế kỷ
VII. Căn cứ vào sự kiện 627 Phù Nam còn đến tiến cống nhà Đường lần cuối cùng,
các học giả cho rằng đó có thể coi đó là năm sớm nhất nước Phù Nam bị tiêu diệt[8].
Như vậy Chân Lạp là một
quốc gia xuất hiện ở vùng trung lưu sông Mê Kông, khu vực gần Biển Hồ, lấy nông
nghiệp là nghề sống chính. Còn Phù Nam là một quốc gia ven biển có truyền thống
hàng hải và thương nghiệp khá phát triển. Trong thời kỳ Phù Nam cường thịnh đã
có nhiều nước nhỏ thần phục với tư cách là những thuộc quốc hoặc chư hầu, trong
đó có Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ VII, nhân lúc Phù Nam suy yếu, Chân Lạp đã tấn
công và chiếm lấy.Lãnh thổ Phù Nam về tay Chân Lạp do kết quả của những cuộc
chiến tranh.
Vùng đất Nam Bộ dưới thời Chân Lạp
Sau khi chiếm được
Phù Nam, vùng đất này được gọi là Thuỷ Chân Lạp[9]. Việc cai quản vùng lãnh thổ
mới đối với Chân Lạp hết sức khó khăn. Trước hết đây là một vùng đồng bằng mới
bồi lấp còn ngập nước và sình lầy, người Khmer với dân số ít ỏi chưa thể tổ chức
khai thác trên quy mô lớn. Hơn nữa, việc khai khẩn đất đai trên lãnh thổ của Lục
Châu Lạp cũng còn đang đòi hỏi rất nhiều thời gian và sức lực. Vào nửa sau thế
kỉ thứ VIII quân đội Srivijaya của người Java đã liên tục tiến công vào các quốc
gia trên bán đảo Đông Dương. Kết cục là Thuỷ Chân Lạp bị quân Java chiếm. Cả
vương quốc Chân Lạp gần như bị lệ thuộc vào Srivijaya. Cục diện này mãi đến năm
802 mới kết thúc. Tuy nhiên người Khmer lúc này muốn dồn sức phát triển các
vùng trung tâm truyền thống của họ ở khu vực Biển Hồ, trung lưu sông Mê Kông và
hướng nỗ lực bành trướng sang phía tây, vùng lưu vực sông Chao Phaya. Trong khoảng
thời gian từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở thành một quốc gia cường
thịnh, tạo dựng nên nền văn minh Angkor rực rỡ, đồng thời mở rộng lãnh thổ lên
tận Nam Lào và trùm lên cả lưu vực sông Chao Phaya. Trong khi đó qua các di
tích khảo cổ học, dấu tích của văn hoá Khmer và văn minh Angkor ở vùng Đồng Nai
– Gia Định hết sức mờ nhạt[10].
Do chiến tranh và phải
tập trung công sức phát triển các trung tâm ở vùng lục địa, sau mấy thế kỷ thuộc
Chân Lạp, đến thế kỷ XIII theo Chu Đạt Quan, vùng đất Nam Bộ vẫn còn là một
vùng đất hoang vu với những “bụi rậm của khu rừng thấp… tiếng chim hót và thú vật
kêu vang dội khắp nơi… những cánh đồng bị bỏ hoang phế, không có một gốc cây
nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẫy, hàng trăm hàng ngàn con trâu rừng
tụ họp thành từng bầy trong vùng này, tiếp đó là nhiều con đường dốc đầy tre chạy
dài hàng trăm dặm…”[11].
Bắt đầu từ thế kỷ XIV
Chân Lạp phải đối phó với sự bành trướng của các vương triều Thái từ phía tây,
đặc biệt là từ sau khi vương quốc Ayuthaya hình thành. Trong gần một thế kỷ
Chân Lạp liên tiếp phải đối phó với những cuộc tiến công từ phía người Thái, có
lúc kinh thành Angkor đã bị quân đội Ayuthaya chiếm đóng.
Công cuộc khai phá vùng đất Nam Bộ
Từ thế kỉ XVI, do sự
can thiệp của Xiêm, triều đình Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc và dần bước vào thời
kì suy vong, hầu như không có điều kiện quan tâm đến vùng đất còn ngập nước ở
phía đông và trên thực tế đã không đủ sức quản lý vùng đất này. Trong bối cảnh
đó nhiều cư dân Việt từ đất Thuận Quảng đã vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai (miền
Đông Nam Bộ) khai khẩn đất hoang lập làng sinh sống.
Năm 1620 vua Chân Lạp
Chey chetta II đã cưới con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên làm vợ. Đối với Chân Lạp,
việc kết thân với chúa Nguyễn là để dựa vào lực lượng quân sự của người Việt
lúc này đang rất mạnh nhằm làm giảm sức ép từ phía Xiêm. Với chúa Nguyễn, quan
hệ hữu hảo này tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt, vốn đã có mặt từ trước,
được tự do khai khẩn đất hoang và làm ăn sinh sống trên đất Thuỷ Chân Lạp và
tăng cường ảnh hưởng của họ Nguyễn với triều đình Oudong.
Năm 1623 chúa Nguyễn
chính tức yêu cầu triều đình Chân Lạp để cho dân Việt mở rộng địa bàn khai phá
trên những vùng đất thưa dân và để quản lý, chúa Nguyễn lập ở Pray Kor (vùng
Sài Gòn ngày nay) một trạm thu thuế. Vua Chân Lạp đã chấp thuận đề nghị này[12]
. Vào thời điểm đó cư dân Việt đã có mặt ở hầu khắp miền Đông Nam Bộ và Sài
Gòn.
Sau cái chết của Chey
Chetta II vào năm 1628 nội bộ giới cầm quyền Chân Lạp bị chia rẽ sâu sắc. Nhiều
cuộc chiến giữa các phe phái đã diễn ra với sự trợ giúp quân sự của một bên là
quân Xiêm, một bên là quân Nguyễn. Những cuộc chiến ấy chẳng những không ảnh hưởng
đến việc người Việt tiến hành khai phá những vùng đất hoang hóa ở đồng bằng
sông Cửu Long, mà trái lại, còn tạo điều kiện thuận lợi cho chúa Nguyễn thiết lập
quyền kiểm soát chính thức của mình trên những vùng đất cư dân Việt đã dựng
nghiệp. Trong thời kỳ này sự thần phục của các nhóm di thần nhà Minh góp phần
đã đẩy nhanh quá trình xác lập chủ quyền của chúa Nguyễn trên lãnh thổ Nam Bộ.
Từ năm 1679 chúa Nguyễn Phúc Tần đã tạo điều kiện để nhóm Dương Ngạn Địch cùng
nha môn, quân sĩ vùng Quảng Tây tổ chức việc khai phá và phát triển kinh tế
vùng lưu vực sông Tiền Giang (Mỹ Tho), cho nhóm Trần Thượng Xuyên và những đồng
hương Quảng Đông của ông chiêu dân tiếp tục mở mang vùng Biên Hòa – Đồng Nai.
Trong vòng gần 20 năm, một vùng đất trải dài từ Bà Rịa đến sông Tiền Giang, vốn
đã được cư dân Việt đến sinh cư lập nghiệp từ trước, nhanh chóng trở thành những
trung tâm kinh tế quan trọng với nhiều làng mạc trù phú, phố phường sầm uất, hải
cảng nhộn nhịp có thuyền buôn Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Dương, Bồ Bà (Java) tới
buôn bán.
Trên cơ sở những đơn
vị tụ cư đã trù mật những trung tâm kinh tế đã phát triển, năm 1698, chúa Nguyễn
đã cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất này và cho lập ra ở đây một
đơn vị hành chính lớn là phủ Gia Định. Như vậy vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn
đã xác lập được quyền lực của mình tại vùng trung tâm của Nam Bộ, khẳng định chủ
quyền của người Việt trên vùng đất mà trên thực tế, chính quyền Chân Lạp chưa
khi nào thực thi một cách đầy đủ chủ quyền của mình.
Sự kiện có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng là vào năm 1708 Mạc Cửu ở Hà Tiên xin quy phục chúa Nguyễn. Là
một thương nhân Hoa kiều ở Lôi Châu, thường xuyên tới buôn bán ở vùng biển Đông
Nam Á, Mạc Cửu đã sớm nhận ra vị trí địa lý thuận lợi của vùng đất Mang Khảm
(sau đổi là Hà Tiên) nên đã lưu ngụ lại, chiêu mộ dân sửa sang bến thuyền, mở
mang chợ búa, khai phá đất đai, biến một vùng đất còn hoang vu thành một nơi
buôn bán sầm uất. Lúc đầu (vào khoảng năm 1680) Mạc Cửu đã từng xây dựng quan hệ
thần phục với vua Chân Lạp, nhưng sau này thế lực Chân Lạp suy giảm, không đủ sức
bảo vệ cho công việc làm ăn của cư dân vùng đất này khỏi sự tiến công cướp bóc
của người Xiêm nên đã tìm đến chúa Nguyễn xin nội thuộc vào năm 1708. Năm 1757
khi đất Tầm Phong Long (tương đương với vùng tứ giác Long Xuyên) được vua Chân
Lạp là Nặc Tôn dâng cho chúa Nguyễn để đền ơn cứu giúp trong lúc hoạn nạn và
giành lại ngôi vua, quá trình xác lập chủ quyền lãnh thổ của người Việt trên đất
Nam Bộ về cơ bản đã hoàn thành.
Từ quá trình lịch sử
trên đây, không thể quan niệm một cách đơn giản rằng chủ quyền của người Việt
trên vùng đất Nam Bộ là do chiếm của Chân Lạp. Chứng cứ lịch sử cho thấy quốc
gia đầu tiên trên đất này là Phù Nam mà cư dân chủ yếu là người protomalais, đến
đầu thế kỷ thứ VII mới bị Chân Lạp tiến công tiêu diệt. Tuy nhiên, Chân Lạp đã
không có điều kiện để quản lý và khai thác vùng đất này. Sự sầm uất, trù phú của
Nam Bộ là công lao khai phá của các nhóm cư dân chủ yếu là người Việt từ thế kỷ
XVII. Chúa Nguyễn là người bảo hộ cho quá trình khai phá này và việc khẳng định
quyền quản lý lãnh thổ là một hệ quả tự nhiên.
Quá trình thụ đắc
vùng đất Nam Bộ của chúa Nguyễn chủ yếu thông qua khai phá hoà bình kết hợp với
đàm phán ngoại giao để khẳng định chủ quyền. Đó là phương thức được thừa nhận
là phù hợp với thông lệ lịch sử và các văn bản quốc tế hiện hành.
Thực thi và bảo vệ chủ quyền
Cùng với quá trình
khai thác những vùng đất còn hoang vu ở Nam Bộ của cộng đồng cư dân, các chính
quyền của người Việt đã liên tục thực hiện các chính sách quản lý lãnh thổ với
tư cách là chủ nhân vùng đất này. Từ thế kỷ XVII để thực thi chủ quyền, các
chúa Nguyễn đã tổ chức các đơn vị hành chính, sắp đặt quan cai trị, lập sổ sách
quản lý dân đinh, ruộng đất và định ra các loại thuế. Phủ Gia Định thành lập
năm 1698 gồm hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà) và Phiên Trấn (Gia Định) quản lý hơn
4 vạn hộ. Sau năm 1774 vùng đất từ nam Hoành Sơn đến mũi Cà Mau được chia làm
12 dinh, trong đó vùng đất Nam Bộ chia thành 4 dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn,
Long Hồ và Hà Tiên). Trừ Hà Tiên lúc đầu còn là một dinh phụ thuộc, mỗi dinh quản
hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Từ đó, về cơ bản tổ chức hành
chính trên vùng đất Nam Bộ đã được kiện toàn.
Triều Nguyễn thành lập
vào năm 1802 tiếp tục sự nghiệp của các chúa Nguyễn đã hoàn thiện hệ thống hành
chính và thống nhất quản lý trên quy mô cả nước. Năm 1836 vua Minh Mạng cho lập
sổ địa bạ toàn bộ Lục tỉnh Nam Kỳ. Bên cạnh chính sách chính trị, quân sự, triều
đình khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội, mở mang phát triển các dinh điền,
đồn điền, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phát triển giao thông thuỷ bộ. Năm
1817 vua Gia Long cho đào kênh Thoại Hà. Vào đầu những năm 20, vua Minh Mạng
giao cho đào kênh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên dài trên 70km.
Ngay từ khi mới khẳng
định quyền quản lý, các chính quyền người Việt đã ý thức sâu sắc về trách nhiệm
đối với chủ quyền lãnh thổ. Chính quyền các chúa Nguyễn đã từng kiên quyết đánh
bại các cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ của quân Xiêm vào các năm 1715,1771…
Tiêu biểu cho ý chí bảo vệ chủ quyền là cuộc kháng chiến chống Xiêm với chiến
thắng Rạch Gầm – Xoài Mút vang dội của Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy vào năm
1785. Sang thế kỷ XIX, các Vua Nguyễn đã cho xây dựng hệ thống các trường luỹ
và đồn bảo trấn thủ dọc theo biên giới để bảo vệ lãnh thổ. Trong suốt nửa đầu
thế kỷ XIX cùng với xây dựng nước Đại Nam hùng cường, các vua Nguyễn đã bảo vệ
vững chắc chủ quyền Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ.
Khi thực dân Pháp tấn
công xâm lược, triều Nguyễn đã tổ chức kháng chiến chống lại. Đến khi triều
đình tỏ rõ sự bất lực thì nhân dân Việt Nam đã không tiệc máu xương liên tục đứng
lên đấu tranh anh dũng bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước của
mình. Thắng lợi vẻ vang năm 1975 là đỉnh cao của quá trình chiến đấu hy sinh bền
bỉ lâu dài vì lý tưởng cao đẹp đó.
Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý về chủ
quyền của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ thể hiện ngay trong quá trình thụ đắc
lãnh thổ bắt đầu từ thế kỷ XVII. Từ giữa thế kỷ XIX, chủ quyền này được chính
thức ghi nhận trong văn bản các Hiệp ước quốc tế. Tháng 12 năm 1845 ba nước An
Nam (Việt Nam), Xiêm (Thái Lan) và Miên (Cămpuchia) đã ký một Hiệp ước, trong
đó thừa nhận 6 tỉnh Nam Kỳ thuộc Việt Nam. Năm sau, trriều Nguyễn và Xiêm lại
ký một Hiệp ước có nhắc lại điều đó. Đây là Hiệp ước mà sau này Cao Miên cũng
tham gia[13]. Như vậy muộn nhất là đến năm 1845 các nước láng giềng với Việt
Nam, trong đó có cả Campuchia đã ký các văn bản pháp lý chính thức công nhận
vùng đất Nam Bộ là của Việt Nam.
Pháp tấn công Nam Bộ
rồi sau đó lần lượt chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ là các sự kiện thể hiện rõ sự xâm hại đến
chủ quyền lãnh thổ trên vùng đất Nam Bộ, nhưng Cămpuchia không có bất cứ một phản
ứng gì. Trái lại, triều Nguyễn đã điều động quân đội tiến hành kháng Pháp và
khi kháng chiến thất bại, đã đứng ra ký các Hiệp định nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền
Đông (năm 1862) và 3 tỉnh miền Tây (năm 1874). Đây là những chứng cớ và cơ sở
pháp lý quan trọng khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với vùng đất này.
Sau khi lập ra Liên
bang Đông Dương, trên cơ sở nghiên cứu lịch sử thực thi chủ quyền trên vùng đất
Nam Bộ, Pháp đã tiến hành hoạch định biên giới giữa Nam Kỳ và Cămpuchia theo luật
của nước Pháp. Việc khảo sát, đo đạc trên thực địa được tiến hành bởi các
chuyên gia Pháp và Cămpuchia. Năm 1889 giữa Pháp và Cămpuchia đã ký một loạt
các văn bản pháp lý về hoạch định, phân giới cắm mốc biên giới giữa Nam Kỳ và
Cămpuchia. Tất cả các văn bản pháp lý này đều khẳng định vùng đất Nam Kỳ hoàn
toàn thuộc về Việt Nam.
Trước những thắng lợi
liên tiếp của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 4 tháng
6 năm1949 tổng thống Vincent Aurol ký Bộ luật số 49 – 733 trả lại Nam Kỳ cho
chính quyền Bảo Đại. Trong Bộ luật còn có chữ ký của Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ
Thuộc địa Pháp.
Giải thích những thắc
mắc của vương quốc Cămpuchia về quyết định này, ngày 8 tháng 6 năm 1949 Chính
phủ Pháp đã có thư chính thức gửi quốc vương Sihanouk, trong đó có đoạn nói rõ:
“Về pháp lý và lịch sử không cho phép Chính phủ Pháp trù tính các cuộc đàm phán
song phương với Cămpuchia để sửa lại các đường biên giới của Nam Kỳ” vì “Nam Kỳ
đã được An Nam nhượng cho Pháp theo các Hiệp ước năm1862 và 1874…. chính từ triều
đình Huế mà Pháp nhận được toàn bộ miền Nam Việt Nam… về pháp lý, Pháp có đủ cơ
sở để thoả thuận với Hoàng đế Bảo Đại việc sửa đổi quy chế chính trị của Nam Kỳ”.
Trong bức thư đó Chính phủ Pháp còn khẳng định: “thực tế lịch sử ngược lại với
luận thuyết cho rằng miền Tây Nam Kỳ vẫn còn phụ thuộc triều đình Khmer lúc
Pháp tới ” và “Hà Tiên đã được đặt dưới quyền tôn chủ của Hoàng đế An Nam từ
năm 1715 và kênh nối Hà Tiên với Châu Đốc được đào theo lệnh của các quan An
Nam từ nửa thế kỷ trước khi chúng tôi đến” [14].
Vậy là đến năm 1949,
vùng đất Nam Bộ vốn từng bị triều Nguyễn “bán” cho Pháp, đã được trả lại bằng một
văn bản có giá trị pháp lý. Chính phủ Pháp còn khẳng định những cơ sở lịch sử
và luật pháp của văn bản này với vương quốc Cămpuchia. Từ đó về sau chủ quyền
Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ liên tục được tất cả các Hiệp định định có giá trị
pháp lý quốc tế như Hiệp định Genève (1954), Hiệp định Paris (1973) công nhận.
Như vậy, chủ quyền
lãnh thổ của Việt Nam trên vùng đất Nam Bộ không chỉ được khẳng định bởi tính
tính chính đáng trong quá trình thụ đắc lãnh thổ cũng như công lao của Việt Nam
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vùng lãnh thổ đó suốt từ thế kỷ XVII đến nay
mà còn phù hợp với nguyên tắc uti possidetis (tôn trọng nguyên trạng), phù hợp
thông lệ và các công ước quốc tế hiện hành.
Kết luận
Vùng đất Nam Bộ vốn
là một địa bàn giao tiếp và đã từng có nhiều lớp cư dân đến khai phá. Vào khoảng
đầu công nguyên, cư dân vùng đất này đã xây dựng nên nhà nước Phù Nam. Trong thời
kỳ phát triển nhất vào khoảng thé kỷ V-VI, Phù Nam đã mở rộng ảnh hưởng và trở
thành một đế chế rộng lớn với nhiều thuộc quốc phân bố ở phía nam bán đảo Đông
Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã, nước Chân Lạp
của người Khmer, vốn là một trong những thuộc quốc của Phù Nam ở vùng Tongle
Sap đã tấn công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông (tương đương với vùng đất
Nam Bộ ngày nay).
Tuy nhiên, trong suốt
thời gian gần 10 thế kỷ vùng đất Nam Bộ không đựơc cai quản chặt chẽ và gần như
bị bỏ hoang. Từ cuối thế kỷ XVI và đặc biệt là từ đầu thế kỷ XVII, dưới sự bảo
hộ của các chúa Nguyễn người Việt đã từng bước khai phá vùng đất này. Người Việt
đã nhành chóng hoà đồng với các cộng đồng cư dân tại chỗ và những cư dân mới đến
(người Hoa) cùng nhau mở mang, phát triển Nam Bộ thành một vùng đất trù phú.
Cũng từ đây người Việt là cư dân chủ thể và thực sự quản vùng đất này. Từ đó đến
nay chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đã được khẳng định không chỉ bằng thực tế lịch
sử mà còn trên các văn bản có giá trị pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Trong suốt hơn ba thế
kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử, nhiều thế hệ người Việt Nam (với ý
nghĩa cộng đồng cư dân đa dân tộc) đã đổ biết bao công sức để dựng xây và bảo vệ
vùng đất Nam Bộ. Mỗi tấc đất nơi đây đều thấm đẫm mồ hôi và máu. Chính vì thế
mà đối với mỗi người dân Việt Nam, Nam Bộ không đơn thuần chỉ là vấn đề chủ quyền
lãnh thổ mà cao hơn thế, còn là vùng đất của những giá trị thiêng liêng.
http://nghiencuuquocte.net/2015/08/13/chu-quyen-viet-nam-vung-dat-nam-bo/#more-9780
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét