Lương
Khánh Ninh - Nguyễn Thị Nhung
Khi Đặng Tiểu Bình đến
thăm Căn cứ Không quân Andrews gần thủ đô Washington vào năm 1979, đất nước
Trung Quốc mới chỉ thức dậy sau một thời gian dài chìm trong giấc ngủ của cuộc
Cách mạng Văn hóa. Không nhiều người biết rõ thân thế của nhà lãnh đạo Trung Quốc
có chiều cao chưa đầy mét rưỡi này. Ông bất ngờ quay trở lại sân khấu chính trị
sau hai lần bị Mao Trạch Đông cách chức. Bản thân Mao đã từng có câu nói nổi tiếng
mô tả Đặng là “một cái kim nằm trong bọc.”
Tuy nhiên, vào năm 1979, Đặng hiểu
rõ mình muốn gì: đó là một mối quan hệ tốt đẹp hơn với Hoa Kỳ. Đặng Tiểu Bình
và Tổng thống Jimmy Carter đã tỏ ra hết sức nghiêm túc trong việc giải quyết những
khác biệt giữa hai bên. Trong thời gian làm công việc đưa tin về những buổi họp
giữa Đặng và Carter, tôi có ấn tượng là hai vị lãnh đạo này đã coi mình đang diễn
xuất trong một bộ phim tình bằng hữu, và cùng nhân cơ hội này để truyền tải một
thông điệp rõ ràng rằng họ đã sẵn sàng để hợp tác.
“Ngày hôm nay chúng
ta tiến thêm một bước nữa trong tiến trình bình thường hóa quan hệ mang tính lịch
sử giữa hai nước mà chúng ta đã bắt đầu từ năm nay,” Carter nói trong bài phát
biểu chào mừng Đặng tại buổi chiêu đãi cấp nhà nước tổ chức ở Nhà Trắng.
Chúng ta cùng chia sẻ niềm hy vọng nảy mầm
từ sự hòa giải những bất đồng trong quá khứ và từ viễn cảnh đầy hy vọng của một
chuyến đồng hành trong tương lai… Chúng ta hãy cùng cam kết rằng cả Hoa Kỳ và
Trung Quốc sẽ cho thấy sự hiểu biết, lòng kiên nhẫn và sự quyết tâm cần thiết để
mối quan hệ mới giữa hai quốc gia chúng ta có thể tồn tại và duy trì.
Sau đó hai nhà lãnh đạo
khởi hành đến Atlanta, Houston và Seattle với một kỷ niệm không thể nào quên ở
Simonton, Texas. Khi Đặng tham dự vào một buổi biểu diễn, một nữ cao bồi đã cưỡi
ngựa phi nước đại đến trước chỗ ngồi của Đặng và tặng ông một chiếc mũ cao bồi.
Khi Đặng đội chiếc mũ biểu tượng của người Mỹ lên đầu, nó gần như che mất tầm
nhìn của ông ta. Nhưng Đặng đã đạt được mục tiêu: cho người dân hai nước thấy
những gì đã qua chỉ còn là quá khứ và bây giờ là thời điểm bắt đầu của một giai
đoạn hoàn toàn mới.
Đặng Tiểu Bình tại
Simonton, Texas, 2/1979. Nguồn: AP
Thậm chí đến ngày hôm
nay những bức ảnh chụp những sự kiện kể trên vẫn còn truyền tải nguyên vẹn tình
bằng hữu và ý nghĩa lớn lao khi hai nhà lãnh đạo đã gạt ngờ vực sang một bên và
tin tưởng nhau đến mức cho phép giao lưu theo những cách hoàn toàn mới mẻ. Dù vậy,
những nỗ lực của họ chỉ đưa đến thay đổi phần nào cho mối quan hệ. Một điều mà
“quá trình bình thường hóa” đã không và không thể thay đổi là hình thái nhà nước
độc đảng theo kiểu Leninist của Trung Quốc. Thêm vào đó, bởi vì hai hệ thống
chính trị cũng như hệ thống giá trị giữa hai nước vẫn còn đối lập nhau, một rào
cản bất đồng to lớn vẫn còn tồn tại. Dẫu vậy, lần gặp gỡ này vẫn tạo cảm giác
thân tình khi nó giúp Đặng và Carter có thể hình dung được rằng (dù theo những
cách khác nhau) hai quốc gia và hai xã hội vẫn có thể dần dần tìm ra nhiều lĩnh
vực có thể hợp tác hơn.
Dù Trung Quốc chưa
bao giờ có được một nhà nước dân chủ thực sự, từ thời lãnh đạo của Tôn Dật
Tiên, Tưởng Giới Thạch cho đến thời của Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương và Đặng Tiểu
Bình, nhưng các nền dân chủ trên thế giới vẫn có thể tạm hài lòng với niềm hy vọng
mơ hồ rằng chừng nào mà Trung Quốc còn mở cửa – và có lẽ cùng với sự trợ giúp từ
thị trường mở, trao đổi học thuật, các khoản từ thiện của Mỹ, vv… – Trung Quốc
sẽ có thể dần trở nên dân chủ hơn.
Những giấc mơ này dường
như đã được xác thực khi Bức tường Berlin sụp đổ và khối Liên Xô tan rã. Nhưng
trong khi những sự kiện kịch tính này làm phương Tây hài lòng, chúng đã khiến
các nhà lãnh đạo Trung Quốc kinh ngạc và hoảng sợ. Họ không hề vừa lòng khi Tổng
thống Bill Clinton, khi nói về sự kiện Thiên An Môn năm 1989 trong chuyến công
du Trung Quốc năm 1997, đã chỉ trích Trung Quốc một cách trịch thượng vì đã “đi
vào lề trái của lịch sử.” Khi đó Tổng bí thư Giang Trạch Dân chẳng có lựa chọn
nào khác ngoài phải im lặng lắng nghe.
Đằng sau chuyến thăm
của cựu Tổng thống Carter
Nhưng hóa ra lịch sử
không hẳn nghiêng về phương Tây như ông Clinton đã nghĩ. Mặc dù biểu hiện bên
ngoài chưa rõ ràng, nhưng thực chất giấc mơ về một Trung Quốc dân chủ hơn đã gần
như bị triệt tiêu kể từ vụ thảm sát Thiên An Môn, khi nó tạo ra một tâm lý đề
phòng cao độ, không-bao-giờ-cho-phép-tái-diễn trong nội bộ Đảng. Sự kiện Tập Cận
Bình trở thành Chủ tịch nước và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản năm 2013 đã giáng một
đòn kết liễu xuống niềm hy vọng cải cách bộ máy chính trị tại đây của cả phương
Tây và người Trung Quốc.
Dựa vào thực tế hiện
nay, có thể rút ra được thông điệp mới của Đảng là: “Bởi vì Trung Quốc tuyệt đối
chối bỏ mọi hình thái nhà nước dân chủ kiểu phương Tây do chúng không phù hợp với
Trung Quốc, người Mỹ nên từ bỏ thứ giấc mơ truyền giáo của họ nhằm đưa tuyển cử,
nhân quyền và dân chủ đến Trung Quốc đi. Những điều các người đang nhìn thấy
cũng chính là những gì các người sẽ nhận được! Chúng tôi không muốn thay đổi bất
cứ điều gì.”
Tại cuộc gặp giữa Tổng
thống Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình được tổ chức tại biệt thự Sunnylands vào
tháng 6 năm 2013, ông Tập có lẽ đã cố gắng lặp lại kỳ tích năm xưa thời Carter-Đặng
khi bày tỏ mong muốn chứng kiến hai quốc gia hình thành một “mối quan hệ cường
quốc kiểu mới.” Ông ta ám chỉ rằng mỗi bên nên chấp nhận tình hình thực tế của
đối phương. Ý tưởng này của Tập chưa bao giờ được đón nhận.
Tuy nhiên trong tháng
9 vừa qua, Jimmy Carter, người có công giúp khởi động quan hệ Mỹ-Trung, đã quay
trở lại Trung Quốc. Đây chẳng phải là cơ hội tốt để khôi phục bầu không khí tôn
trọng lẫn nhau như xưa và để cùng nhau tìm kiếm những bước tiến mới trước khi
ông Obama đến Trung Quốc vào tháng 11 hay sao? Còn ai phù hợp hơn Carter trong
việc góp phần cải thiện một mối quan hệ mà giờ đây chồng chất những tranh chấp,
căng thẳng và hoài nghi, thêm vào đó là để đạt được một mối quan hệ “kiểu mới”?
Tôi chấp nhận lời mời
cùng đi với Carter trong chuyến thăm lần này. Dĩ nhiên, so với năm 1979, Trung
Quốc đã phát triển vượt bậc về nhiều mặt và quá trình thể chế hóa quan hệ song
phương với Hoa Kỳ đã đạt được những biến chuyển tích cực. Nhưng đáng kinh ngạc
không kém chính là những ngờ vực về động cơ và ý đồ vẫn còn tồn tại nguyên vẹn
giữa hai bên. Thực vậy, nhìn vào tình hình hiện nay, ta chỉ có thể đi đến kết
luận rằng hai nước đang ngày càng rời xa nhau, đây là một thực tế rõ ràng thậm
chí trước cả khi Carter đáp máy bay xuống Bắc Kinh. Lý do gì đã dẫn đến tình trạng
này?
Carter lần đầu đến
Trung Quốc vào năm 1949, với tư cách là một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phục vụ
trên một tàu ngầm của Hoa Kỳ đang ghé thăm Thanh Đảo và Bắc Kinh vào thời điểm
chỉ mấy tháng trước khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Ba thập
niên sau, vào ngày 15 tháng 12 năm 1978, sau một loạt cuộc thương thảo bí mật
kéo dài và cực kỳ gian truân, Carter khiến cả thế giới kinh ngạc khi thông báo
Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ tái thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường. Bất chấp
sự phản đối gay gắt từ Quốc hội Mỹ – Thượng Nghị sĩ Barry Goldwater đã buộc tội
ông đã “lừa dối, khinh thường Quốc hội, và bán rẻ Đài Loan” – sáu tuần sau đó Đặng
Tiểu Bình xuất hiện tại Nhà Trắng.
Khi Carter quay trở lại
Bắc Kinh vào tháng 9 để dự lễ kỷ niệm 35 năm “bình thường hóa quan hệ,” điểm dừng
chân đầu tiên của ông là Đại học Nhân dân Trung Quốc. Tôi đã tưởng rằng đây là
một cơ hội không chỉ để ca ngợi vai trò của Carter trong quan hệ Mỹ-Trung mà
còn để ông bày tỏ quan điểm về những sự kiện sau khi bình thường hóa và gặp gỡ
các sinh viên. Nhưng thay vào đó, chúng tôi nhận thấy mình bị nhét vào một hội
thảo về nền tài chính toàn cầu do trường tổ chức, đó là một trong vô số những
cuộc hội thảo kinh doanh ngày nay đang ngập tràn ở Trung Quốc bởi chủ đề này nằm
trong diện an toàn. Chỉ sau bài phát biểu không có gì đặc sắc của ông hiệu trưởng
và một cựu chuyên viên về đầu tư của Liên Hợp Quốc người Argentina, Carter mới
có thể có một bài nói chuyện ngắn và sau đó chỉ có một câu hỏi được đặt ra trực
tiếp cho ông.
Hóa ra Carter được trả
tiền cho bài nói chuyện này, điều này khiến chuyến thăm lần này chỉ như một chặng
dừng trong nỗ lực không ngừng nghỉ trên phạm vi toàn cầu của ông nhằm duy trì
nguồn quỹ cho Trung tâm Carter. Nhìn cựu Tổng thống Hoa Kỳ bị đối xử một cách hờ
hững ta mới thấy rõ được rằng cán cân quyền lực giữa hai quốc gia đang dần dịch
chuyển như thế nào: ngày nay không chỉ có phương Tây mới là những kẻ giàu có.
Và thực tế, Trung Quốc được dự báo là sẽ sớm vượt Mỹ về GDP.
Sự dịch chuyển quyền
lực mang tính cấu trúc trong quan hệ Mỹ-Trung còn thể hiện ra theo nhiều cách
khác. Dù Carter trước đó đã gặp Tập Cận Bình bốn lần, trong chuyến thăm lần này
ông không gặp cả Tập hay Thủ tướng Lý Khắc Cường; điều này thật kỳ lạ, bởi nếu họ
thực sự mong muốn quan hệ Mỹ-Trung trở nên tốt đẹp hơn thì tại sao họ lại bỏ
qua một nhân vật đã từng làm rất nhiều điều để cải thiện mối quan hệ này?
Thêm vào đó, người
Trung Quốc trước đó đã không nể nang khi không cho phép một thành viên trong
đoàn của Carter đứng lên phát biểu trong một diễn đàn được tổ chức tại Đại lễ
đường Nhân dân. Bản thân ông Carter cũng nhanh chóng nhận ra rằng nhiều tổ chức
đón tiếp chính thức tại Trung Quốc đã phải hủy bỏ hoặc tổ chức lại một số sự kiện
tại Thượng Hải và Thanh Đảo. Và nữa, một cuộc gặp của Trung tâm Carter dành cho
Diễn đàn Học giả trẻ của Hoa Kỳ và Trung Quốc trong chương trình Quan hệ Mỹ-Trung
bị dời địa điểm tổ chức khỏi Đại học Giao thông Thượng Hải cơ sở ở Tây An đến một
khách sạn.
Trung Quốc lãnh đạm với
Carter
Phái đoàn Carter hay
báo giới đã không thể lý giải nguyên nhân tại sao những thay đổi kể trên lại được
phép xảy ra, bất chấp chúng làm tổn hại đến mục đích của chuyến thăm. Có lẽ chiến
dịch chống tham nhũng đang được tiến hành ở Trung Quốc đã làm những nhà tổ chức
sự kiện lo lắng. Cũng có thể bởi các quan chức tại đây biết được Carter từ lâu
rất tận tâm với vấn đề nhân quyền quốc tế và dân chủ, và vì vậy họ lo sợ sẽ xảy
ra một sự cố không hay nào đó.
Trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, người ngoại quốc luôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc bày tỏ mối bất
bình tại Trung Quốc. Tất cả các đại sứ quán, doanh nghiệp, trường đại học, tổ
chức phi chính phủ và các cơ quan truyền thông nước ngoài đều nhận thức đươc rằng,
ở đây người ngoại quốc phải chấp nhận cảnh cho gì nhận nấy. Phàn nàn nhiều quá
sẽ chỉ nhận lại sự trì hoãn hoặc hủy bỏ hợp đồng, visa, chương trình, kế hoạch
gặp mặt và các chương trình giao lưu.
Đoạn cao trào nhất
trong chuyến thăm của Carter diễn ra tại buổi yến tiệc trong Đại lễ đường Nhân
dân, một công trình kiến trúc rộng và đầy khoảng trống có hình dạng giống hầm mộ
được “nhân dân” chóng vánh xây nên trong vòng mười tháng trong Phong trào Đại
Nhảy vọt năm 1959 khi có khoảng 30-40 triệu người đang bắt đầu dần chết đói.
Đây là một trong số những công trình mang tính lịch sử, có ý nghĩa hết sức quan
trọng của quá trình mở rộng Quảng trường Thiên An Môn do Mao chỉ đạo. Những căn
phòng đồ sộ của nó (mỗi phòng dành riêng cho một tỉnh), tất cả đều được trang
trí bằng những bức tranh phong cảnh có kích thước khổng lồ, được tính toán nhằm
mục đích khiến người ta cảm thấy nể sợ và choáng ngợp. Thế nhưng bữa tối dành
cho ông Carter lại đơn điệu một cách đáng thất vọng. Phó chủ tịch Lý Nguyên Triều
chủ trì tiếp đãi bữa yến tiệc này, ông ta có một bài phát biểu ngắn nhưng không
còn giữ thái độ nhiệt thành và thân thiện như của những cuộc gặp ba mươi lăm
năm về trước.
Trong khi chúng tôi
ăn tối giữa một rừng bàn tiệc mà một nửa số đó không có người ngồi, một giáo sư
người Trung Quốc thầm nói với tôi rằng cách đây mấy hôm Chủ tịch Tập Cận Bình
có cuộc gặp với tổng thống Zimbabwe Robert Mugabe, một người bị cộng đồng quốc
tế tẩy chay lên án (còn Tập gọi ông ta là “một người bạn lâu năm của nhân dân
Trung Quốc mà chúng ta vô cùng kính trọng”, người mà Trung Quốc “cùng đứng vai
kề vai chống lại chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa bá quyền”).
Ông giáo sư tiếp tục cho biết ông Tập thực ra cũng đang ở Đại lễ đường Nhân dân
nâng cốc chúc mừng Quốc vương Malaysia Abdul Halim Mu’adzam Shah ngay tại thời
điểm chúng tôi dùng bữa tối. Nhưng ông Tập đã không hề ghé qua buổi chiêu đãi
ông Carter để chào lấy một lời.
Không một tờ báo nào
trong số sáu tờ báo Trung Quốc mà tôi xem lướt qua vào ngày hôm sau đưa tin về
buổi yến tiệc hay chuyến thăm của Carter. Chỉ có duy nhất phiên bản tiếng Anh của
tờ China Daily, một tờ báo được người Mỹ làm việc ở Trung Quốc biết đến rộng
rãi, là có đề cập chút thông tin, tờ báo này đăng tải một bức ảnh không có mặt
Carter mà thay vào đó là đội văn nghệ sinh viên tại buổi yến tiệc, ở dưới là một
bài báo ngắn có tiêu đề: “Buổi chiêu đãi vinh danh quan hệ Trung-Mỹ.”
May mắn thay, tối hôm
sau chúng tôi được thết đãi một bữa tối được tài trợ bởi tờ Caijing Magazine và
bà Đặng Dung, con gái của Đặng Tiểu Bình. Với việc rất nhiều cựu quan chức
Trung Quốc trước đây từng làm việc với chính quyền Carter hiện diện ở đây, nghe
nói ông cựu tổng thống cùng phu nhân cảm thấy vô cùng hài lòng khi nhìn thấy rất
nhiều “bạn cũ,” hầu như tất cả bọn họ nay đều đã rời nhiệm sở.
Tác động nhìn chung của
chuyến thăm – và đây cũng là một “tác động” xuất hiện ở rất nhiều chuyến thăm
khác giữa người Mỹ và người Trung Quốc – là để khiến cho những vị khách đến
thăm cảm thấy việc gây dựng những mối quan hệ thực chất là điều bất khả thi.
Trên thực tế, tôi đã nghe được từ những nguồn tin thân cận với Carter rằng ông
đã cảm thấy buồn chán đến mức tính đến việc xách va li về nước ngay lập tức.
Yếu tố khiến bữa tối
tại Đại lễ đường tạo cho người ta khó chịu hơn cả là cảm giác “sỉ nhục” phảng
phất nơi đây. Đảng Cộng sản Trung Quốc từ lâu đã nhấn mạnh những năm tháng
trong lịch sử Trung Quốc khi đất nước bị người nước ngoài nhục mạ và bóc lột. Cảm
nhận dường như người Trung Quốc đang muốn trả đũa theo chiều ngược lại khiến
tôi chỉ muốn rời bữa tiệc tối hôm đó ngay từ đầu.
Tại sao Trung Quốc ngạo
mạn?
Trong lúc tôi đi bộ
khỏi Đại lễ đường để đến Quảng trường Thiên An Môn cùng với một học giả người
Hoa gốc Mỹ, trên con đường được thắp sáng như thể để trang hoàng cho đêm Giáng
Sinh, chúng tôi đồng tình với nhau rằng thật đáng thất vọng khi chứng kiến
không chỉ riêng việc Carter bị ngăn không cho tiếp xúc chính thức và tư cách của
ông bị xúc phạm, mà cả việc đây thực chất chỉ là một phần trong chuỗi sự kiện
cũng diễn ra theo cách giống như vậy mà gần đây chúng tôi đã tham gia. Hơn thế
nữa, chúng tôi cũng cảm thấy bàng hoàng khi thấy Trung Quốc ngày nay chính thức
thể hiện cho thế giới hình ảnh một quốc gia đầy ngờ vực, bí ẩn, kẻ cả và khắc
nghiệt.
Những hình ảnh này đặc
biệt được gửi tới những quốc gia theo nền dân chủ, những nước mà Trung Quốc đặc
biệt coi là tiếp tay cho phản động và thậm chí thù nghịch. Có thời kỳ, cách đây
chưa lâu, chính người Trung Quốc đã từng chỉ trích phương Tây vì lối xử sự
tương tự. Nhưng nếu cách hành xử khi đó của những nước mà Trung Quốc coi là “đế
quốc” không giúp gì cho quan hệ của họ với Bắc Kinh, thì chẳng có lý gì để thấy
lối hành xử hiện nay của Bắc Kinh lại mang tính xây dựng hơn cả.
Tuy nhiên nhiều quan
chức và sĩ quan quân đội của Trung Quốc ngày nay dường như quá tự hào rằng đất
nước của họ đã trở nên giàu có và hùng mạnh đến độ họ cảm thấy hầu như nhẹ nhõm
khi cuối cùng cũng có thể dùng vũ lực chống lại Nhật Bản và Việt Nam – và ngay
cả âm thầm sỉ nhục một nước Mỹ hùng mạnh – mà không màng đến những hậu quả tiêu
cực và thậm chí nguy hiểm có thể xảy ra cho phần còn lại của thế giới khi họ
hành xử ngang ngược như vậy. Lúc này đây cả hai phía có lẽ đang cảm thấy ngày một
lúng túng với câu hỏi tại sao mọi thứ lại quá khó khăn đến vậy, ngay lúc nước
sôi lửa bỏng khi chúng ta cần tìm cách để né tránh những xung đột mà rất nhiều
người lo lắng sẽ có thể xuất hiện cùng với sự trỗi dậy của một cường quốc mới.
Thái độ hờ hững ngăn
cản hai phía chúng ta thực sự tiếp cận nhau đến từ đâu? Có lẽ là từ một mối
quan ngại cho rằng nếu người Trung Quốc tỏ ra quá mềm mỏng và niềm nở, họ có thể
sẽ bị hiểu sai thành sự yếu đuối, nhu nhược mà Trung Quốc đã rất vất vả để xóa
mờ đi bằng cách nỗ lực vươn đến sự giàu có và quyền lực.
Nguyên nhân thứ hai
có lẽ là do nhận thức của Bắc Kinh cho rằng bất chấp tất cả những thành tựu
kinh tế nước này đã đạt được, các nước dân chủ kiểu phương Tây không những vẫn
tiếp tục coi thường hệ thống quản trị theo mô hình Leninist của Trung Quốc mà
còn rất muốn nhìn thấy hệ thống này có những thay đổi về căn bản. Không có gì bất
ngờ khi thái độ của phương Tây về các nguyên tắc của Đảng Cộng sản Trung Quốc
được nhìn nhận là thứ tác phong trịch thượng, và điều này khiến nhiều người
Trung Quốc vốn rất tự tôn cảm thấy vô cùng bực bội.
Giờ đây khi Trung Quốc
đang tận hưởng thành tựu của sự phát triển khiến cán cân quyền lực đã và đang
nhanh chóng ngả về phía nước này, người Mỹ nhận thấy họ đang đối mặt với một thực
tế mới xuất hiện ở Bắc Kinh. Kế hoạch cải cách của Tập Cận Bình giờ đây thậm
chí còn không bao gồm một chương trình cải cách chính trị thực chất. Đã xa rồi
những ngày các quan chức phải bao biện, “Hãy cho chúng tôi thêm thời gian.
Trung Quốc không thể thay đổi tất cả mọi thứ trong một sớm một chiều được.”
Thêm vào đó, việc chứng
kiến cảnh tượng một Quốc hội Mỹ tê liệt và các chính phủ châu Âu trượt dốc khiến
cho Trung Quốc càng thêm tự tin vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa theo mô
hình Leninist cũng như có thêm lý do để bắt đầu thể hiện thái độ cương quyết với
thế giới bên ngoài.
Những thất bại của
các mẫu hình dân chủ như vậy càng củng cố niềm tin của các quan chức trong Đảng
rằng họ đã hoàn toàn đúng đắn khi chối bỏ các sản phẩm của nền dân chủ phương
Tây: hệ thống cân bằng và kiểm soát, nền chính trị bầu cử, các giá trị phổ
quát, nhân quyền, xã hội dân sự độc lập, nền truyền thông mở, và sự tự do của
các nhóm tôn giáo. “Một trong những nhược điểm của nền dân chủ phương Tây mà
lâu nay giới lãnh đạo Trung Quốc luôn phê phán là nó dễ dẫn đến trạng thái tê
liệt, bế tắc và sau cùng là sự yếu kém của chính quyền,” Tập Cận Bình đã nhận
xét như vậy gần đây.
Trước đây, phương Tây
từng tin chắc rằng Trung Quốc, trước tác động của thị trường tự do, nền giáo dục
chịu ảnh hưởng từ nước ngoài và quyền lực mềm của phương Tây, sớm muộn gì cũng
sẽ phải cởi mở hơn về chính trị – điều mà nhiều người phương Tây cho là con đường
cách mạng tất yếu (và thậm chí đáng mơ ước) đối với bất kỳ xã hội nào. Nhưng giờ
đây, niềm tin này bị các nhà lãnh đạo Trung Quốc thẳng thừng và lớn tiếng bác bỏ
với nội dung tóm lược như sau: “Chúng tôi không muốn tham gia vào giấc mơ định
hướng mục tiêu của các người! Quan điểm “lề phải của lịch sử” do Tổng thống
Clinton đưa ra không nằm trong quan điểm chính thức về “giấc mộng Trung Hoa” của
Tổng bí thư Tập Cận Bình chúng tôi!”
Mặt trái của “Giấc mộng
Trung Hoa”
“Giấc mộng Trung Hoa”
là ý tưởng do Tập khởi xướng, ngày nay được tung hô trên những biển quảng cáo,
trạm dừng xe buýt và trên mọi nẻo đường khắp đất nước; giấc mơ này phục vụ cho
khát khao lâu đời của Trung Quốc về sự thịnh vượng, quyền lực, nể trọng, và vị
thế toàn cầu. Nhưng trong đó không chứa đựng bất cứ khát vọng nào đối với các
khái niệm tự do dân chủ và các giá trị nhân văn của phương Tây. Chính cái bóng
của những xung đột tư tưởng này và những dịch chuyển quyền lực to lớn ban đầu
trong quan hệ đối với châu Á đã hủy hoại chuyến thăm của Jimmy Carter. Dẫu sao,
ông cũng là tổng thống Mỹ đầu tiên đưa nhân quyền phổ quát trở thành một trong
những tiêu chí trọng tâm khi xây dựng chính sách đối ngoại của Nhà Trắng.
Quyền lực mới của
Trung Quốc giờ cho phép đất nước này kháng cự lại hầu hết các hình thức gây sức
ép từ bên ngoài. Khi những người từ những vùng đất “man di mọi rợ” như ông
Carter đến thăm, các quan chức hàng đầu của Trung Quốc sẽ hào hứng hơn nhiều với
việc buộc họ tuân thủ một thứ hệ thống giống như “triều cống” của các vương triều
khi xưa, chính hệ thống này đã từng đặt ra những quy tắc ngặt nghèo đối với các
sứ thần đến từ các quốc gia phụ thuộc như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Miến Điện.
Những vị sứ thần như vậy được cho phép đến Bắc Kinh, chờ đợi được diện kiến với
hoàng đế, dâng tặng những lễ vật lên Thiên Tử như những “cống phẩm,” và rồi
nhanh chóng lui ra. Họ chưa bao giờ được hưởng vị thế ngang hàng, bởi vì suy
cho cùng thì không có cường quốc nào “ngang hàng” được với Trung Quốc mà chỉ có
thể kém hơn.
Bởi vì những người
Trung Quốc yêu nước đã chờ đợi rất lâu để thấy được ngày đất nước của họ “phục
hưng”, nên ta có thể hiểu được tại sao họ lại cảm thấy hân hoan với vị thế ngày
một lớn mạnh của đất nước và thèm muốn thể hiện khả năng kháng cự của họ đối với
sức ép từ phương Tây, thứ sức mạnh mà họ đã không có được trong một thế kỷ rưỡi.
Tuy nhiên sự cương
quyết, cứng nhắc và thái độ chủ nghĩa dân tộc ngày một hằn học hơn của Trung Quốc
trong thời gian gần đây đang thổi bùng làn sóng phản kháng trong khu vực ảnh hưởng
của nước này. Trên thực tế, một vài người đang đặt ra câu hỏi, “Trung Quốc có bất
kỳ bạn bè nào không?”. Những hành động của Trung Quốc cũng đang khiến người ta
quan ngại sâu sắc về ý đồ của họ, đặc biệt trong nhóm ủng hộ Trung Quốc mà ta
có thể tạm gọi là “phe thỏa hiệp” tại Mỹ và những nơi khác trên thế giới vốn
đang nỗ lực để hai nước xích lại gần nhau.
Rất nhiều người ủng hộ
Trung Quốc như vậy đang bắt đầu tự hỏi liệu hy vọng về loại hình hợp tác Mỹ-Trung
– mục tiêu mà Tổng thống Carter đã cố gắng thúc đẩy ba mươi lăm năm về trước
nay được ông nhắc đi nhắc lại ở Bắc Kinh hồi tháng 9 này – liệu bây giờ đã trở
thành ngây thơ quá hay không. Thực vậy, ngày càng có nhiều những người ngoại quốc
sau môt thời gian tham gia sâu vào các vấn đề của Trung Quốc tỏ ra vỡ mộng và
lo lắng về cách cư xử gần đây của quốc gia này. Đặc biệt đáng chú ý là số lượng
CEO người nước ngoài, những người từng một thời là nền tảng của mối quan hệ khởi
sắc giữa Mỹ và Trung Quốc, bắt đầu tự hỏi liệu họ có còn tương lai nào ở đất nước
này hay không.
Chuyến thăm gần đây của
Carter là một cơ hội quý giá, được nhiều mất ít cho Trung Quốc để bắt đầu đảo
chiều lòng tin đang dần xuống dốc này. Tất cả những gì họ cần làm chỉ là ca ngợi
quan hệ đối tác tuyệt vời giữa Carter và Đặng năm 1979 và nói thêm rằng mối
quan hệ hệ trọng nhất trong các mối liên kết toàn cầu này giờ cần được tiếp nối.
Thay vào đó, người
Trung Quốc lại hết lần này đến lần khác chọn gửi đi những thông điệp gây phức tạp
hóa tình hình: “Kể từ bây giờ, các người chơi theo luật của chúng tôi, nếu
không các doanh nghiệp nước ngoài sẽ bị hạn chế quyền lợi, các chuyến thăm
chính thức sẽ bị hạ thấp tầm quan trọng, visa dành cho các học giả và nhà báo
có tư tưởng tự do sẽ bị cấm, và những người tỏ ra có đầu óc mơ mộng đến chuyện
dân chủ sẽ bị loại trừ thẳng thừng. Và bởi vì chúng tôi biết rằng chẳng một ai
có thể gánh chịu được thiệt hại khi bị đá khỏi thị trường Trung Quốc béo bở,
nên chúng tôi ở Bắc Kinh có thể viết lại luật của cuộc chơi này.”
Nói vậy không có
nghĩa là Trung Quốc không muốn có một quan hệ tốt đẹp hơn với Mỹ, quốc gia này
chỉ muốn xây dựng nó theo cách của họ. Một lý do nữa góp phần vào tình trạng bế
tắc này là ở chỗ những quan chức ở Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao Mỹ hiện không có
mấy hứng thú cũng như kinh nghiệm đối với Trung Quốc, và họ cũng bị phân tâm bởi
nhiều vấn đề cấp bách khác trên thế giới. Hơn nữa, chúng ta có một vị tổng thống
sở hữu một phong thái khá lãnh đạm, cho đến bây giờ vẫn chưa thể làm gì để kết
thân với người đồng cấp Tập Cận Bình, cũng là một người dường như rất kín đáo
và tiết chế bản thân với một nụ cười bí ẩn.
Nói tóm lại, những quốc
gia mà trước đây từng được coi là “phương Tây” ngày nay phải đối mặt với một
tình thế ngày càng khó khăn, khi cán cân quyền lực đang thay đổi, đây là một sự
thật mà hầu như chưa ai thực sự chú tâm để thừa nhận, chứ chưa nói đến việc
tính đến những cách tiếp cận mới đối với Trung Quốc. Chúng ta vẫn còn hoài niệm
về những tháng ngày xa xôi, khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn nghe theo lời dặn
dò hãy “giấu mình chờ thời” (thao quang dưỡng hối) của Đặng Tiểu Bình. Điều ông
ta muốn nói đến trong câu thành ngữ này không phải là Trung Quốc nên mãi mãi kiềm
chế bản thân, mà là thời điểm để Trung Quốc thể hiện tham vọng toàn cầu vẫn
chưa chín muồi. Dẫu vậy, dường như các nhà lãnh đạo nước này đang ngày càng tin
rằng thời cơ ấy cuối cùng cũng đã đến và họ không còn muốn nhấn mạnh đến khái
niệm “trỗi dậy hòa bình” nhằm ru ngủ nước khác nữa.
Ẩn đằng sau thái độ gần
đây của Trung Quốc là một lời cảnh báo ngầm: “Nếu như Trung Quốc không thể có
cái mình muốn một cách hòa bình, thì chúng tôi bây giờ có đủ sức mạnh để đạt được
mục đích đó bằng những cách khác, và chúng tôi cũng không ngại phải đụng chạm
ai cả.” Lời đe dọa này gợi nhắc đến hình bóng của Vladimir Putin. Thông điệp mà
người Trung Quốc dường như muốn gửi đi nhưng không muốn nó quá thẳng thừng (họ
luôn là bậc thầy về lối nói bóng gió) là họ muốn được nhìn nhận theo cách mà họ
muốn, chứ không phải theo cách của chúng ta. Dù muốn hay không thì đây vẫn
chính là thực tế thế giới mới.
Thử thách mới này vẫn
còn lạ lẫm với chúng ta và nó đặt ra một câu hỏi hóc búa: Liệu các quốc gia dân
chủ phương Tây có thể chấp nhận Trung Quốc đúng như bản chất hiện nay, để chúng
ta có thể đối phó hiệu quả hơn với hàng loạt vấn đề toàn cầu mới xuất hiện đang
đe dọa tất cả chúng ta như biến đổi khí hậu, bệnh dịch, chủ nghĩa khủng bố, và
phổ biến vũ khí hạt nhân hay không?
http://nghiencuuquocte.net/2014/12/19/khi-trung-quoc-dap-tra-su-si-nhuc-cua-phuong-tay/#more-4900
Nguồn: Orville
Schell, “China Strikes Back!”, The New York Review of Books, October 23, 2014
Issue.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét