Cuộc chiến đánh
phá Việt Nam Cộng Hòa do đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) chủ động đã kết thúc 42
năm, nhưng tại sao dân tộc Việt Nam vẫn còn chia rẽ nghiêm trọng và ước mơ đòan
kết tòan dân để xây dựng đất nước hãy còn xa vời. Tìm câu giải đáp
thỏa đáng cho câu hỏi này không khó, vì trách nhiệm hòan tòan thuộc phe thắng
trận là đảng CSVN, được Nga-Tầu sử dụng đánh Mỹ thay cho họ ở chiến trường miền
Nam.
Hàng chục ngàn
người dân Việt Nam (Thuyền nhân) đã chết tức tưởi và ô nhục trên đường vượt biển
tìm tự do sau ngày quân Cộng sản miền Bắc vào Sài Gòn, 30/4/1975.
Nguyên Tổng Bí
thư đảng Cộng sản Lê Duẩn đã nhìn nhận như thế dù trên lý thuyết nhà nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước 1975 vẫn tuyên truyền chiến tranh trong Nam là cuộc
chiến “chống Mỹ cứu nước”.
Câu nói để đời
cho đảng CSVN của Lê Duẩn là: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho
Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại, đánh cho cả bọn
xét lại đang đâm vào lưng ta.”
Chưa bao giờ đảng
và nhà nước CSVN dám cải chính câu nói này, do Nhà văn Vũ Thư Hiên ghi lại
trong Tác phẩm “Đêm Giữa Ban Ngày” do nhà xuất bản Văn Nghệ in và phát hành năm
1997 (trang. 422, phần chú thích).
Cũng thật trớ
trêu cho lịch sử, ông Hiên là con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, một thời gian dài là
bí thư của ông Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng cả hai cha con sau đó bị công an bắt
bỏ tù vì nghi tham gia vào phong trào được gọi là “xét lại chống Đảng”
(1967-1976). Nhà văn Vũ Thư Hiên bị tù 9 năm từ Hỏa Lò qua các nhà tù Bất Bạt
(Sơn Tây) và Tân Lập (Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Ông từng bị biệt
giam trong xà lim 4 năm rưỡi. Hiện ông sống tị nạn chính trị ở Pháp.
Nhưng không cần
phải đợi đến tiết lộ của Nhà văn Vũ Thư Hiên, người Việt Nam nào cũng biết cuộc
chiến nồi da xáo thịt dài 20 năm, chuẩn bị từ 1954 để phát động từ 1955,
(1955-1975) ở miền Nam, thực chất chỉ là “cuộc chiến đánh thuê” cho Nga-Tầu của
Cộng sản miền Bắc (nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) chống miền Nam không Cộng sản
của Việt Nam Cộng hòa.
TỔN THẤT ĐỒNG
MINH BẮC-NAM
Nhưng để vuốt mặt
cho khỏi xấu hổ, miền Bắc Cộng sản đã lấy cớ “chống Mỹ” để xua quân đánh chiếm
miền Nam sau khi miền Nam phải nhờ vào sự yểm trợ của trên nửa triệu quân Mỹ
(khỏang 541.933) và quân của các nước đồng
minh gồm Nam Hàn, Phi Luật Tân, Thái Lan, Tân Tây Lan và Úc Đại Lợi để tự vệ chống
quân xâm lược miền Bắc.
Miền Bắc không
có quân đội của khối Cộng sản, do Nga-Tầu điều binh khiển tướng trực tiếp tác
chiến bên cạnh quân miền Bắc ở các mặt trận trong Nam hay trên các tuyến xâm nhập
đường Mòn Hồ Chí Minh qua Ai Lao, Cao Miên, hay “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển”
(sử dụng ven biển để xâm nhập vào Nam), nhưng các chuyên viên quân sự và cố vấn
Nga-Tầu và các nước chư hầu của Nga trong khối Liên bang Xô Viết cũ đã có mặt ở
miền Bắc trong suốt 20 năm chiến tranh
xâm lăng miền Nam.
Theo Bách khoa
Tòan (BKTT) thư mở thì đã có “khoảng 6.000 quân nhân Xô Viết tham gia vào Chiến
tranh Việt Nam với vai trò cố vấn kỹ thuật và huấn luyện; 16 trong số đó thiệt
mạng do bệnh tật hoặc tai nạn.”
Phiá Trung Hoa
có 1.446 công binh bị chết (phần lớn do bệnh tật hoặc tai nạn), trong khi Bắc
Hàn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên) có 14 phi công chết, 2 cố vấn bị
thương.
Nhưng nếu hai khối
Cộng sản Nga-Tầu không cung cấp lương thực, quần áo và súng đạn cho miền Bắc
theo đuổi cuộc nội chiến để gây thảm họa cho nhân dân miền Nam thì ngày nay đã
không có hận thù Nam-Bắc và không có chia rẽ dân tộc.
TỔN THẤT MỸ-VNCH
VÀ DÂN THƯỜNG
Về tổn thất của
Hoa Kỳ, BKTT ghi nhận có 58,209 quân nhân tử thương, 153,303 bị thương và 1,948
vẫn còn ghi là mất tích.
Phía các đồng
minh khác của VNCH gồm quân đội Nam Hàn có 5.099 tử trận,11.232 bị thương và 4
mất tích trong chiến đấu. Phi Luật Tân bị 552 tử trận; Thái Lan có 351 chết và
1.358 bị thương; Úc Đại Lợi bị khoảng 500 chết, bao gồm 426 chết trong chiến đấu
và 76 chết vì các nguyên nhân khác. Cuối cùng là Tân Tây Lan với 55 lính tử trận
và 2 dân thường.
Về tổn thất của
2 phía người Việt Nam trong cuộc chiến, tài liệu của BKTT viết: “Số liệu chính
thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất là:
Theo tài liệu Lịch
sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia của nhà nước CSVN thì phiá miền Bắc có:
1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có
300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác)
600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.
Tổn thất của
Quân lực VNCH được ước tính có 300.000 tử trận hoặc mất tích và 1.170.000 bị
thương .
Vể tổn thất của
người dân, BKTT ước tính: “Có từ 900.000 đến 4.000.000 dân thường chết: Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội (Cộng sản) Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3
tháng 4 năm 1995, hai triệu thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam
đã chết khoảng giữa năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể
là hậu quả của các chiến dịch ném bom của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.”
Ngoài số thương
vong, BKTT cũng báo cáo còn có: “Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời;
Khoảng 2 triệu người (gồm cả quân nhân) bị phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại.”
Với những tổn thất
và đổ vỡ như thế thì phe nào trong cuộc chiến phải có bổn phận hàn gắn vết
thương dân tộc? Chẳng lẽ lại là phe người miền Nam, nạn nhân của cuộc xâm lăng
từ miền Bắc?
Thế nhưng trong
42 năm qua, đảng và nhà nước CSVN đã không biết ăn năn hối lỗi để tạ tội với
nhân dân. Ngược lại, họ đã có hành động và ngôn ngữ “bới đống tro tàn tìm máu đổ”
để chạy tội và vụ lợi.
TỪ NGHỊ QUYẾT 36
ĐẾN DỐI TRÁ
Tiêu biểu là Nghị
quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004: “Về công tác đối với người Việt Nam ở
nước ngoài”.
Điều then chốt của
NQ 36 là tuyên bố “Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”
Từ quan điểm
chính trị “vơ vào” này, đảng CSVN đã sử dụng mọi mánh khoé và hậu ý của ngôn từ
để mồi chài và đánh lừa người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và nói riêng những
người Việt miền Nam đã chạy thoát chế độ hà khắc và kỳ thị Cộng sản chạy ra nước
ngoài tìm tự do.
NQ 36 chủ
trương: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần
giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau,
cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần
thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.”
Nhưng thực tế
thì khác. Đảng CSVN chỉ muốn người Việt ở nước ngoài, nhất là giới chuyên gia,
trí thức và các nhà kinh doanh quay đầu về “hội nhập” vào guồng máy cai trị của
nhà nước để giúp mở mang dân trí, ngành nghề, nhất là hai lĩnh vực khoa học và
kỹ thuật để giúp Việt Nam phát triển theo đường lối và chính sách cai trị độc
tôn và độc quyền của đảng CSVN.
Vì vậy, nhà nước
CSVN đã thất bại. Cho đến nay, sau 13 năm thi hành NQ 36, số trí thức về giúp
nước chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nguyên do vì đảng đã coi thường trí thức không
có đảng tịch, ganh tị và kỳ thị trí thức “kiều bào” và luôn luôn đặt cán bộ đảng
học dốt, bằng dổm chỉ huy người có bằng thật và có kiến thức kinh nghiệm chuyên
môn vuợt trội hơn.
Ngay đến các du
học sinh theo học ở nước ngoài bằng tiền nhà nước Việt Nam cũng rất ít người muốn
trở về phục vụ vì ở Việt Nam không có điều kiện và phương tiện cho họ hành nghề
và phát triển kiến thức. Hơn nữa, dù có học giỏi và có bằng cao nhưng không là
hậu duệ của con ông cháu cha, không quen biết, không nhờ cò hối lộ xin việc thì
bằng cấp chỉ là thứ không đáng một đồng xu.
Trong lĩnh vực
kinh doanh, con số doanh nhân Việt kiều về nước làm ăn cũng không nhiều và nếu
có, chỉ tập trung vào các lĩnh vực có lợi nhuận và kiếm lời nhanh như bất động
sản và du lịch.
Lý do không có
Việt kiều nào dám bỏ tiền đầu tư vào các dự án kinh tế lớn và bền vững vì nhà
nước chỉ muốn bảo vệ các Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) để cho các phe phái và lợi
ích nhóm có phương tiện ăn chia với nhau và để nuôi đảng.
Hơn nữa, nhà nước
CSVN lại gỉa bộ không biết cái gía của tự do và dân chủ mà các trí thức Việt kiều
và doanh nhân người Việt đã được hưởng ở nước ngoài nên khi họ về nước làm việc
đã lập tức bị những con mắt cú vọ của Công an khu vực dòm ngó theo dõi từng bước
đi và lời nói, khiến có người vừa về Việt Nam đã muốn quay gót ra đi ngay.
Tình hình này
cũng đã khiến không có mấy người Việt Nam, dù sống lâu năm ở nước ngoài, muốn
quay về Việt Nam sống cho hết cuộc đời, dù biết phải đau lòng bỏ lại Việt Nam mồ
mả của cha mẹ, anh em và Tổ tiên.
TỪ THÔNG TIN ĐẾN
XÂM NHẬP
Về phương diện
thông tin, NQ 36 chủ trương: “Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin,
tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng tình hình đất nước
và chính sách của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho các chương trình dành cho người
Việt Nam ở nước ngoài của đài phát thanh, truyền hình và Internet; chú trọng đổi
mới nội dung, hình thức và kỹ thuật của các chương trình này. Hỗ trợ việc ra
báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng
Internet để phục vụ cho người Việt Nam sống xa Tổ quốc. Hỗ trợ kinh phí vận
chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài
phục vụ cộng đồng.”
Nhưng khi thi
hành thì Nhà nước đã thất bại ê chề vì con số người Việt Nam ở nước ngoải, dù
có coi báo đài trong nước hay các chương trình phát sóng ở nước ngoài cũng
không mảy may thay lòng đổi dạ để “thay áo quốc gia bằng áo Cộng sản”.
Lý do vì các cơ
quan truyền thông và báo của người Việt tị nạn ở khắp thế giới đã khuynh loát
và nhấn sâu xuống bùn đen mọi nguồn thông tin không thật, dối trá và lươn lẹo”
của Bộ Thông tin-Truyền thông và báo đài nhà nước.
Người Việt Nam sống
ở nước ngoài, cũng như rất đông người Việt ở trong nước ngày nay đã thông minh,
sáng suốt và nhạy bén với thông tin nhanh chóng và đúng sự thật của những “nhà
báo lề dân” đang can đảm hoạt động chống lại thông tin một chiều và sai sự thật
của báo “lề đảng”.
Bằng chứng là
các mạng báo điện tử của người Việt không Cộng sản ở nước ngoài đã kết nối
thành công và nhanh chóng với các nhà báo tự do, các blocger, các tổ chứcxã hội
dân sự và Facebook trong nước để, chỉ trong nháy mắt, đã truyền tải đầy đủ tin
tức và hình ảnh sự thật của biến cố trong nước đến người Việt Nam trên thế giới,
và ngay cả ở Việt Nam.
Sự lép vế ngày một rõ ràng của báo chí nhà nước đã đẩy lùi NQ 36
vào sâu trong bóng tối trong cuộc chiến truyền thông giữa nhà nước Việt Nam và
người Việt quốc gia ở nước ngoài.
Ngay cả đến công
tác xâm nhập cán bộ vào các tổ chức Cộng đồng người Việt Nam, hoặc mồi chài tay
sai để vu khống và phá họai hàng ngũ người Việt Nam ở nước ngoài cũng thất bại.
Nếu Ban Tuyên
giáo, Bộ Thông tin và Truyền thông và Cục Chính trị quân đội không tin thì cứ hỏi
Đại sứ Việt Nam ở Moscow, ông Nguyễn Thanh Sơn, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban người
Việt Nam ở nước ngoài xem ông ta đã nếm những thất bại chua cay như thế nào khi
còn tại chức và trong các chuyến đi tuyên truyền cho NQ 36 ở Hoa Kỳ và Châu Âu.
AI BUỒN-AI VUI ?
Nhưng trong hàng
ngũ đảng CSVN sau 42 năm Sài Gòn bị quân Cộng sản cưỡng chiếm, vẫn không thiếu những kẻ chỉ biết to mồm khoe chiến
thắng để chia rẽ dân tộc và xuyên tạc sự thật.
Điển hình như
các cuộc biểu tình đấu tranh tranh đòi đền bù công bằng và đòi đóng cửa Fomosa
để bảo vệ môi trường của đồng bào Hà Tĩnh, Nghệ An và Qủang Bình từ đầu năm
2017 đã bị Công an đàn áp và chống phá. Báo đài Hà Tĩnh và báo lề đảng đã xuyên
tạc các cuộc tranh đấu hòa bình là phá rối an ninh trật tự và cuộc sống thanh
bình của người dân.
Người dân, các
Linh mục lãnh đạo biểu tình và Đức cha Nguyễn Thái Hợp, vị chủ chiên của đồng
bào Công giáo địa phận Vinh còn bị vu khống và buộc tội nhận sự yểm trợ tài
chính và tinh thần của cái mà Công an và báo đài nhà nước gọi là “các thế lực
thù địch bên ngoài”.
Rồi các cuộc khiếu
kiện đền bù của người dân bị cuỡng chế đất đai, tiêu biểu như vụ Đồng Tâm, cách
Hà Nội 40 cây số cũng đã bị đàn áp, bắt tù người tranh đấu vô tội.
Như vậy thì hòa
hợp, hòa giải được với ai? Ngay đến đồng bào trong nước mà còn bị kỳ thị, bị
cai trị bằng dùi cui và công an đội lốt côn đồ đánh phá, tấn công ở bất cứ đâu
và không trừ ngày hay đêm thì làm sao mà những nạn nhân của ngày 30/4/1975 có
thể quên được những khổ đau và đọa đầy mà đảng CSVN đã gây ra cho đồng bào miền
Nam trong 42 năm qua?
Trong nỗi bất hạnh
này là chính sách kỳ thị man rợ của nhà nước CSVN đã áp dụng trong mọi lĩnh vực,
kể cả xin việc làm và giáo dục, chống lại con cháu của những người của chế độ
VNCH.
Nhưng trong 42
năm qua, liệu có khi nào lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN ở Hà Nội biết nếm nỗi đắng
cay của những gia đình người miền Nam có hàng trăm ngàn thân nhân bị bắt đi tù
lao động cực hình, hay đã bỏ thây trong các trại tập trung được mạo danh là “cải
tạo học tập” ?
Hoặc có bao giờ
họ thấu được nỗi oan khiên của hàng chục ngàn đồng bào, được thế giới gọi là
“thuyền nhân” (boat people) đã chết tức tưởi và ô nhục trên đường vượt biển tìm
tự do sau ngày quân Cộng sản miền Bắc vào Sài Gòn, 30/4/1975 ?
Tất cả những
hình ảnh bi thảm này của người dân miền Nam vẫn sống động như mới xẩy ra hôm
qua.
Và cuối cùng, những
người Cộng sản ngày nay, nếu còn sót dòng máu Việt Nam trong cơ thể thì nên
bình tĩnh chiêm nghiệm di chúc của Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã để lại cho họ:
“Chiến thắng của
chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng
cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam
rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả
họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc
lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết
thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ
máu.”
(Phỏng vấn của
báo báo Tổ Quốc, ngày 31/03/2005)
Như vậy thì liệu
Lãnh đạo đảng và nhà nước CSVN có nên tự xét mình xem họ đã làm được gì để hàn
gắn vết thương dân tộc hay chỉ biết gây ra những chia rẽ mới?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét