Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn Lý Thừa
Vãn và Tổng thống Đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958-Getty Images
Nhìn lại lịch sử, chúng tôi thấy câu ngạn ngữ "hoạ vô
đơn chí, phúc bất trùng lai" sao nó đúng quá: tai bay vạ gió thì luôn theo
nhau mà đến với Việt Nam Cộng Hòa, còn những cái may mắn thì ít khi nó trở lại.
Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm: sau bao nhiêu gian lao với
Pháp, ông đã khai sinh ra nền Cộng Hòa. Sau đó xây dựng được những thành tích vẻ vang của "Năm
Năm Vàng Son 1955-1960," (độc giả xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 13).
Nhưng vừa tới năm 1961 thì ông phải đối đầu ngay với những giao động khôn lường:
nửa năm đầu thì Tổng thống John F. Kennedy hết sức ủng hộ, tới nửa năm sau,
bang giao Việt - Mỹ rơi vào khủng hoảng.
Sau cùng thì trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng vào dịp Lễ Phật
Đản thứ 2507 (ngày 8/5/1963), TT Kennedy gửi ông Henry Cabot Lodge sang làm Đại
sứ thay thế ĐS Frederick Nolting về hưu.
Nolting là người ủng hộ ông Diệm. Ông Lodge là người mưu mô,
nham hiểm, có nhiều thành kiến về ông Diệm. Vì tham vọng muốn lập thành tích để
ra ứng cứ tổng thống vào năm 1964 cho nên ông đã dùng đủ mọi mưu lược triệt tiêu
Tổng thống Diệm với hậu quả là phá nát nền Đệ Nhất Cộng Hòa mùa Thu 1963. Tôi gọi
ông này là Đao phủ HENRY I.
Tới Đệ Nhị Cộng Hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại gặp
ngay một tay HENRY nữa - Henry A. Kissinger. Về ông này, ta có thể đặt câu hỏi:
ở một cường quốc vĩ đại như Hoa Kỳ, biết bao nhiêu người vừa tài, vừa đức, vừa
có tâm, vừa có tầm mà lại không lên được tới địa vị quyền hành như ông
Kissinger?
Ông này còn mưu lược, gian dối hơn Cabot Lodge gấp mấy lần.
Kissinger đã đạo diễn chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam trong gần sáu năm rưỡi,
tức là trên hai phần ba thời gian của Đệ Nhị Cộng Hòa.
Cái nguy hiểm cho cả Mỹ lẫn Miền Nam là ông này thích hành động
bí mật và một mình.
Trong một cuộc phỏng vấn với nữ ký giả người Ý, bà Oriana
Fallaci, ông giải thích rằng sở dĩ ông có sức mạnh là nhờ ở lối hành động một
mình:
"Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một mình. Người
Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn đầu một
toán di dân, một mình trên lưng ngựa, đi đầu, thủng thẳng tiến vào một tỉnh lỵ,
một thị xã; chỉ mình với ngựa thôi, không có gì khác. Có thể là không có cả
súng nữa, là vì gã ta không cần bắn. Gã chỉ hành động bằng cách là ở đúng chỗ,
vào đúng lúc, thế thôi. Nói gọn hơn, gã là một cao bồi miền Tây."
Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY II.
Nhân dịp 30 tháng Tư, chúng tôi xin chia sẻ với đồng hương một
vài cảm nghĩ về số phận long đong của cả hai nền Cộng Hòa vào lúc hoàng hôn thê
lương ảm đạm.
Khi Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ
Những cái xui xẻo đã xảy ra liên tục cho Tổng thống Ngô Đình
Diệm trong ba ngày cuối cùng của cuộc đời ông (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào,
Chương 22).
Ngày 3/03/1963 Tòa Bạch Ốc gửi mật điện chỉ thị cho Đại sứ
Lodge là: "phải thông báo đầy đủ cho Tướng Harkins (tư lệnh quân đội Mỹ ở
Miền Nam) trong mọi giai đoạn, và sử dụng những khuyến cáo của cả Harkins lẫn
Smith," và "tất cả chỉ thị cho Conein (người trung gian với nhóm tướng
lãnh đảo chính) cũng phải được thông qua ý kiến của Harkins và Smith."
Nhưng vào những giờ phút chót, ông Lodge đã trái lệnh Tổng thống, không chịu
bàn bạc, thông báo gì với ông Harkins (vì Harkins hết sức bênh vực TT Diệm);
Cố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh
ông, Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa năm 1963
Cùng ngày 30/03, Đại sứ Lodge hoãn chuyến đi Washington. Ông
đã định đi vào ngày 31 tháng 10. Chỉ thị từ Washington là khi ông Lodge đi vắng
thì Tướng Harkins sẽ thay thế ông để điều khiển ở Sàigòn. Nếu ông Harkins ở lại
thì khó có thể đảo chính. Sau cùng, Washington lại quyết định cho phép ông
Lodge hoãn chuyến đi vài ngày. Lodge muốn ở lại Sàigòn để theo rõi đảo chính
ngày hôm sau.
Ngày 31 tháng 10 là ngày trước đảo chính. Vì ngày đảo chính
(mồng 1 tháng 11) là ngày Lễ Các Thánh, ngày lễ của người Công giáo, nên ông Diệm
có thể đi kinh lý hoặc thăm viếng chỗ này chỗ kia. Cho nên Tướng Trần Văn Đôn đề
nghị với TT Diệm là ông nên tiếp xã giao Đô đốc Harry Felt (Tư lệnh quân lực Mỹ
Thái Bình Dương) vừa tới Sàigòn. Đề nghị như vậy là để có cớ thuyết phục TT Diệm
ở lại Dinh Gia Long trong ngày đảo chính cho chắc ăn.
Chính ông Đôn đã viết lại trong cuốn hồi ký Our Endless War
- Inside Vietnam:
"Sáng ngày 31 tháng 10, tôi vào dinh gặp Tổng thống Diệm
để hỏi về vấn đề Đô đốc Felt đến Sàigòn, và dò hỏi xem có phải vì ông không có
mặt ở Sàigòn vào ngày mai nên không tiếp ông Felt được hay không? Ông Diệm ngạc
nhiên vì không biết tin ông Felt tới Sàigòn."
Vì Tướng Đôn đề nghị, TT Diệm đã quyết định ở lại Sài gòn để
tiếp Đô đốc Felt vào ngày 1/11.
Buổi sáng ngày 1 tháng 11, khi TT Diệm tiếp hai ông Felt và
Lodge, ông bất chợt hỏi ông Lodge rằng ông biết đang có âm mưu đảo chính nhưng
không biết rõ tướng tá nào muốn đảo chính. Ông Lodge trả lời một cách quanh co:
"Tôi không nghĩ rằng Tổng thống phải lo ngại gì cả." Như vậy là để
đánh lừa ông Diệm;
Một chuyện nữa hết sức quan trọng, đó là cuối cùng, như đã đề
cập trên đây, Tổng thống Diệm đã muốn làm một nghĩa cử ôn hòa với cả Đại sứ
Lodge, cả Tổng thống Hoa kỳ. Vì biết ông Lodge sắp lên đường về Washington, ông
dặn ông Lodge là khi về tới Washington thì nên gặp hai ông Colby (trưởng trạm
CIA ở Sàigòn trước đây) và Nolting (cựu Đại sứ) để bàn bạc về vấn đề giải quyết
chuyện ông Nhu cho ổn thỏa.
Rồi ông gửi một thông điệp cho TT Kennedy nói:
"Tôi bằng lòng chấp nhận tất cả những đề nghị của Tổng
thống Kennedy một cách hết sức nghiêm chỉnh, và muốn thực sự thi hành những điều
này, chỉ còn vấn đề thời gian tính."
Tổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11
cũng trong năm 1963 ở Dallas-Getty Images
Chắc ông Lodge cũng còn một chút lương tâm và cho rằng như vậy
là đã có thể đi tới chỗ hòa hoãn với ông Diệm được rồi, nên ông có báo cáo về
Washington thông điệp này.
Thế nhưng, vô tình hay hữu ý, theo Mark Moyar thì ông Lodge
lại gửi điện tín này theo thủ tục 'ưu tiên thấp nhất' nên khi thông điệp này tới
Washington thì tiếng súng đã bắt đầu nổ ở Sàigòn rồi. Theo một tác giả khác,
James W. Douglas trong cuốn JFK and The Unspeakable thì Lodge đã trì hoãn để
khi Kennedy nhận được điện tín này thì đã quá trễ.
Ngày 1 tháng 11 cũng là ngày sinh nhật của Đại tá Hồ Tấn Quyền,
Tư lệnh Hải quân, là người trung thành với TT Diệm và đã cứu ông trong dịp đảo
chính tháng 2 năm 1962.
Sau khi chơi quần vợt với một số đồng đội, họ mời ông dùng
cơm trưa để mừng sinh nhật thứ 36 của ông. Thoạt đầu, ông đã từ chối. Buổi sáng
hôm ấy, ông cũng đã chột dạ vì thấy có những cuộc chuyển quân hơi lạ nên muốn
theo dõi để báo cáo cho ông Diệm. Nhưng rồi viên sĩ quan phụ tá cố nài ép nên
ông nể lòng. Lúc đang trên đường đi tới một quán nhậu ở ngoại ô Sàigòn, ông đã
bị sát hại. Như vậy là ông Quyền đã đi trước và dọn đường tới nghĩa trang cho
hai ông Diệm-Nhu.
Theo tác giả Mark Moyar (trong cuốn Triumph Forsaken) thì
"khi cuộc đảo chính sắp bắt đầu, một viên sĩ quan chỉ huy lữ đoàn Lực lượng
Đặc biệt đề nghị với Tổng thống Diệm cho ông dùng xe thiết giáp tấn công tổng
hành dinh của nhóm đảo chính để bắt trọn ổ số Tướng lãnh đang họp hành. Thành
công là chắc chắn, viên sĩ quan cố thuyết phục ông Diệm, vì chỉ có một số lính
đang tập sự đứng gác ở Tổng Tham Mưu, và đúng như vậy.
Nếu những tướng chủ mưu bị bắt thì quân đội đảo chính tất sẽ
bị rối loạn.
Nhưng TT Diệm không cho phép, ông nói: "Quân đội phải
tiết kiệm súng đạn để chống Cộng, và tránh đổ máu," rồi thêm: "Chỉ cần
bảo vệ Dinh Gia Long, nhà Bưu điện và Tổng Nha Ngân khố."
GS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry Kissinger
(bìa trái hình) là Đao phủ Henry II-Getty Images
Như đề cập trên đây, sau khi tiếng súng đảo chính đã vang dội,
Tổng thống Diệm gọi giây nói cho Đại sứ Lodge vào lúc 4 giờ 30 chiều (ngày 1
tháng 11) để hỏi về thái độ của Hoa kỳ. Ông Lodge trả lời lơ mơ là ông không biết
gì để nói nhưng có đề nghị với ông Diệm là sẽ cho xe cắm cờ Mỹ đến Dinh Gia
Long đưa ông Diệm ra phi trường, rồi dùng máy bay riêng của đại sứ để chở ông
ra khỏi nước, nhưng TT Diệm từ chối. Nhưng trái với điều mà nhiều tác giả đã viết,
cuộc điện đàm này không phải là trao đổi cuối cùng giữa hai người. Vẫn còn một
cú điện thoại khác nữa.
Cú điện thoại thứ hai là lúc ở tại nhà thờ Cha Tam, ông Diệm
đã gọi ông Lodge để yêu cầu giúp đỡ phương tiện để ra đi, vì ông Lodge đã hứa rằng
"Nếu tôi có thể làm được gì để giúp cho an toàn của Ngài thì Ngài cứ gọi
tôi." Nhưng bây giờ ông Lodge lại trả lời là Tòa Đại sứ Mỹ chỉ có thể cho
ông trú ẩn và bất cứ điều gì khác, nhưng không thể giúp phương tiện chuyên chở
ông ra khỏi nước. Như vậy là trái hẳn với đề nghị của ông Lodge chiều hôm trước.
Ông Mike Dunn, Phụ tá trưởng của đại sứ - là người đứng bên ông Lodge khi ông
này nói diện thoại với ông Diệm - đã xin tự nguyện đến chở hai ông Diệm, Nhu đi
để bảo vệ cho hai ông, nhưng ông Lodge đã không đồng ý! "Tôi thật ngạc
nhiên là ta đã không làm gì để giúp cho hai anh em họ Ngô," ông Dunn phàn
nàn.
Một nhân chứng nữa cũng khẳng định về việc này là nhà báo
Joseph Fried của tờ New York Daily News trong một báo cáo vào ngày 5 tháng 11,
1963.
Sau khi ông Lodge từ chối giúp đỡ, Tổng thống Diệm hoàn toàn
thất vọng, khoảng 7 giờ sáng ngày mồng 2 ông quyết định gọi điện thoại cho Bộ
Chỉ huy Đảo Chánh thông báo là ông đã ra lệnh cho lính phòng vệ Phủ tổng thống
ngưng bắn và ông đầu hàng vô điều kiện.
Đây là một việc không may mắn nhất cho TT Diệm vì cho tới
ngày đảo chính, nhóm tướng lãnh vẫn còn nghi ngờ nhau, chưa có sự tin tưởng và
đồng ý hoàn toàn. Chính TT Thiệu đã kể lại (với Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân) là
"nếu ông Diệm và ông Nhu không ra trình diện (gọi điện thoại) vào sáng
ngày 2 tháng 11, chỉ cần nán lại tới trưa cùng ngày thì các tướng lãnh sẽ lên
máy bay chạy hết vì lo sợ và nghi ngờ lẫn nhau" là đã mắc mưu ông Nhu.
Trước đó, trong giai đoạn chuẩn bị đảo chính, Tướng Paul
Harkins, Tư lệnh Mỹ ở Việt Nam cũng báo cáo về cho tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch
Tham Mưu Liên Quân về nhóm tướng lãnh:
Bà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một
chuyến công du nước ngoài-Getty Images
"Tôi thấy chúng ta có một tổ chức của nhóm người thật
hoang mang trong đó mọi người nghi ngờ mọi người khác."
Các tướng lãnh yêu cầu Conein sắp xếp máy bay, nhưng CIA trả
lời là cần 24 giờ thì mới thu xếp được, nhưng thật ra là đã có sẵn một chiếc
máy bay ở Sàigòn để chở Đại sứ Lodge về Washington và ông này đã hoãn chuyến
đi. Dù sao, khi nghe thấy nói đến 24 giờ, Tướng Minh gắt lên "Chúng tôi
không giữ họ lâu thêm được nữa."
Sau này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó là Đại tá) còn
kể lại với chúng tôi rằng:
"Khi được lệnh đánh Dinh Gia Long, ông đã có ý định tìm
TT Diệm và mời ông lên xe jeep mở mui để về Bộ TTM rồi đưa ông đi ra ngoại quốc,
nhưng khi chiếm Dinh xong thì thấy ông Diệm đã đi rồi. Ông Thiệu thêm: "Nếu
như TT Diệm đi xe jeep mui trần như vậy thì không ai dám sát hại ông..."
Đến khi ông Thiệu được tin TT Diệm gọi điện thoại về Bộ Tổng
Tham Mưu, ông còn đề nghị với Tướng Minh để cho ông đi đón TT Diệm từ nhà thờ
Cha Tam, nhưng ông Minh gạt đi và nói "Khỏi phải lo, đã có người rồi."
Bất hạnh cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Hòa
Tháng 2/1972, TT Nixon đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao. Dịp này
ông đã đảo ngược "chính sách ngăn chặn Trung Quốc" (containment of
China). Khi mở cửa Bắc Kinh thì ông đóng cửa Sàigòn, và khi bắt tay với ông Mao
thì buông ngay tay ông Thiệu (như chúng tôi đã viết trong cuốn Tâm Tư Tổng Thống
Thiệu).
Sau đó Nixon - Kissinger áp lực Miền Nam ký Hiệp Định Paris
(1/1973). Từ đó những cái xui xui xẻo tới dồn dập:
Ngược lại với những cam kết của TT Nixon là sẽ tiếp tục viện
trợ, VNCH vừa ký kết một hiệp định hết sức bất lợi thì lại bị cắt xén viện trợ
thật bất ngờ và thật nhanh;
Còn được chút ít viện trợ thì lại bị ngay cú 'sốc' siêu lạm
phát (do chiến tranh Israel - Ai Cập vào tháng 10/1973) làm tiêu hao mãi lực của
viện trợ. Một thùng dầu thô đang từ 4USD vọt lên 12 USD.
Tới khi viên trợ bị cắt hết, Miền Nam xoay xở đi vay Quốc
Vương xứ Saudi để mua tiếp liệu. Vua Saud al Faisal vừa đồng ý cho vay 300 triệu
USD thì lại bị người cháu ruột hạ sát thê thảm ngay trong hoàng cung. Ông nằm
xuống vào đúng ngày cố đô Huế bị bỏ ngỏ.
Tổng thống Johnson và Tổng thống Thiệu tại
hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Việt 20/07/1968 ở Honolulu-Getty Images
Trên chiến trường, lúc bị tấn công, Ban Mê Thuột gọi không
quân đến yểm trợ. Phi vụ vừa tới thả bom thì một trái rơi trúng ngay Bộ Tư Lệnh
Sư Đoàn 23;
Mất Ban Mê Thuột, có lệnh rút Pleiku. Ngày 18 tháng 3, quân
dân hoảng hốt rút trên con đường 7B đẫm máu. Vừa về tới Phú Bổn thì bị kẹt ngay
vì công binh chưa làm xong cây cầu nổi như đã dự tính: đoàn người di tản chịu
thêm một trận pháo kích bên bờ sông Ea Pha. Sau này Tổng Thống Thiệu kể lại cho
tôi rằng ông vẫn còn thắc mắc về chuyện tại sao Công Binh không làm xong cái cầu
nổi? Đại tướng Viên cũng cho rằng "Sư đoàn 320 của cộng sản sẽ không bao
giờ truy kích kịp đoàn quân nếu chúng ta có được cầu qua sông thiết lập đúng
lúc, và giữ đuợc trật tự trong đoàn dân quân di tản." Vì cầu không xong,
cho nên:
Hai ngày sau mới rời đuợc Hậu Bổn. Đoàn dân quân vừa tiến được
chừng 20 cây số là khựng ngay, vì "trước mặt đoàn di tản là Phú Túc đả bị
địch chiếm."
Khi không quân tới cứu,"một trái bom nữa rơi vào đoàn
quân đi đầu, gây thương vong cho gần một tiểu đoàn Biệt Động Quân."
Tôi đang dự một buổi họp đầy căng thẳng tại Dinh Độc Lập sau
cuộc rút lui thảm hại này thì Đại Tá Cầm (Chánh Văn phòng Tổng Thống) bước vào
đưa một tin bất hạnh: ông Paul Léandri, trưởng phòng thông tấn xã Agence France
Presse ở Sàigòn bị cảnh sát bắn chết.
Léandri loan tin "có số lính người Thượng (Montagnards)
đã nổi loạn ở Hậu Bổn, chống lại quân đội VNCH'. Nha Cảnh Sát mời ông đến để thẩm
vấn. Sau vài tiếng đồng hồ bị giữ lại, Leandri bỗng nhiên bước ra khỏi phòng,
nhảy lên xe và lái vút đi. Khi cảnh sát huýt còi ngừng, ông cứ tiếp tục phóng.
Cảnh sát rút súng bắn vài phát vào bánh xe để giữ lại. Chẳng may một viên đạn lạc
trúng ngay vao người. Leandri gục chết tại chỗ.
Phóng viên ngoại quốc vô cùng phẫn uất, phản kháng kịch liệt.
Trong một tình hình vô cùng bất lợi cho Miền Nam về tất cả mọi phương diện quân
sự, chính trị, kinh tế, và bộ mặt Miền Nam đã bị bôi nhọ bởi những hình ảnh dã
man, độc tài, tham nhũng, bây giờ hình ảnh Leandri bị bắn gục chết lại phóng đi
khắp thế giới! Tổng Thống Thiệu nghe tin này đã tái mặt. Ông liền chấm dứt, bước
ra khỏi phòng họp.
Mấy ngày hôm sau, trong một phiên họp khác ở Văn Phòng Thủ
Tướng, lại có tin chiếc máy bay vận chuyển C-5A chở đám trẻ em mồ côi vừa cất
cánh ở Tân Sơn Nhất đã bị nổ tan. Chết trên 200 trăm em bé! Vào chính lúc đó lại
đang có những chống đối ngay tại Washington về việc di tản người Việt Nam bằng
máy bay Mỹ.
Ôi sao tin tức nó dồn dập, bi đát đến thế vào lúc con thuyền
Miền Nam nghiêng ngửa sắp chìm đắm!
Suy gẫm như vậy, nhiều nguời trong đó có tác giả, cũng chỉ
còn có cách là nghĩ đến chữ 'mệnh'.
...Ngày nay nhìn lại, riêng phần tác giả thì cũng chỉ có một
mong ước, đó là những thế hệ con cháu được sống trong thời đại kỹ thuật, có nhiều
phương tiện và hoàn cảnh thuận lợi để liên lạc nên sẽ có thể gần gũi nhau hơn,
thông cảm nhau hơn để rồi từng bước có thể giúp cho vận mệnh đất nước trở nên
tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.
Chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là niềm hy vọng của đại đa số
người dân Việt Nam hôm nay.
***
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Giáo sư Nguyễn Tiến
Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước
1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả
cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng
tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét