Tại Mỹ, Tổng thống Trump đã đưa
ra những hứa hẹn khi tranh cử là sẽ thắt chặt việc nhập cảnh người tị nạn và di
dân. Mặc dù đã bị toà án ra lệnh tạm hoãn thi hành, sắc lệnh hành pháp ban hành
ngày 27/1/2017 cho thấy phần nào quyết tâm thực hiện điều này của Donald Trump
trong những ngày sắp tới.
Tổng thống Trump và vấn đề người
tị nạn Syria. Ảnh: Infowars.com.
Theo sắc lệnh này, Mỹ sẽ đóng cửa
hoàn toàn chương trình tiếp nhận người tị nạn trong 120 ngày và ngừng tiếp nhận
người tị nạn Syria vô thời hạn.
Vấn đề tái định cư người tị nạn
không chỉ liên quan đến an ninh quốc gia của những nước tiếp nhận như Hoa Kỳ,
mà đây còn là vấn đề quốc tế và đặc biệt có liên quan trực tiếp đến quyền con
người.
Nếu nước Mỹ thật sự thay đổi
chính sách và đóng cửa với người tị nạn thì lời kêu gọi của họ đến các nhà nước
độc tài về việc thực thi những giá trị dân chủ và nhân quyền liệu có còn đủ trọng
lượng như trước đây hay không?
Một số thông tin từ Cao ủy Liên
hiệp quốc về Người tị nạn (United Nations High Commissioner for Refugees –
UNHCR) về thủ tục tái định cư, cũng như cùng tìm hiểu quy trình xử lý hồ sơ tị
nạn của chính phủ Hoa Kỳ có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn cơ sở pháp lý của những
tranh cãi xung quanh vấn đề người tị nạn hiện nay.
Định nghĩa về người “tị nạn”
trong luật Quốc tế
Người “tị nạn” (refugees) là định
nghĩa do Công ước về vị thế người tị nạn 1951 (United Nations 1951 Convention
Relating to the Status of Refugees) đặt ra sau Thế chiến thứ 2, khi người dân tại
một số nước Âu châu vẫn phải tiếp tục bỏ trốn nơi sinh trưởng vì các lý do đàn
áp chính trị, tôn giáo, và cả chiến tranh.
Hoa Kỳ là một trong những nước dẫn
đầu việc soạn thảo Công ước 1951 và cũng là một trong những nước thành viên đầu
tiên. Hiện nay, có 145 quốc gia là thành viên của công ước này.
Quy ước về vị thế người tị nạn
năm 1967 (1967 Protocols) đưa ra những nguyên tắc về việc tái định cư
(resettlement) người tị nạn trên toàn thế giới đối với những quốc gia thành
viên của Công ước QT về người tị nạn. (Việt Nam không tham gia Công ước 1951
hay Quy ước 1967).
Theo Công ước 1951, người tị nạn
(refugees) là những người bắt buộc phải chạy trốn khỏi đất nước của họ để thoát
khỏi tình trạng khủng bố, chiến tranh, bạo lực hoặc đàn áp về tôn giáo hay
chính trị. (1)
Vì thế, người tị nạn KHÔNG PHẢI
là người di dân (immigrant) và do đó, càng không thể bị gọi là người di dân bất
hợp pháp.
Người di dân là những người tự
nguyện rời khỏi đất nước của mình vì những lý do khác, mà kinh tế thường là
nguyên nhân chủ yếu. Ngược lại, người tị nạn không tự nguyện rời bỏ quê hương.
Thủ tục cứu xét tái định cư người
tị nạn theo Công ước 1951 và Quy ước 1967
Trước hết, người tị nạn phải được
Cao ủy LHQ xác nhận tư cách “tị nạn” rồi mới được đưa vào danh sách trình đến
các quốc gia đồng ý tiếp nhận cho họ tái định cư, ví dụ như Hoa Kỳ.
Trong việc cứu xét tái định cư
người tị nạn của Cao ủy LHQ, có vài thông tin từ LHQ (2) mà chúng ta cần chú ý:
Thông tin và dữ liệu về tái định
cư người tị nạn toàn thế giới và tại Hoa Kỳ (UNHCR).
Thuyền nhân Việt Nam góp phần cho
ra đời Luật Tị nạn Mỹ hiện hành
Sau cuộc chiến Việt Nam, con số
thuyền nhân từ Việt Nam vượt biên đến các trại tị nạn trong khu vực Đông Nam Á
đã có khi lên đến hàng trăm nghìn người mỗi năm, từ năm 1975 cho đến 1979. (3)
Đứng trước tình hình người tị nạn
từ Việt Nam và một số nước ĐNA khác tiếp tục xin tị nạn, các nhà lập pháp Mỹ
cho rằng cần phải có một quy định pháp luật rõ ràng cho việc tái định cư của những
người này.
Với sự đề xuất của thượng nghị sỹ
Edward Kennedy thuộc đảng Dân chủ từ bang Massachusetts, và được sự ủng hộ của
14 thuợng nghị sỹ khác trong đó có cựu Phó Tổng thống Joe Biden, một dự thảo luật
về tái định cư người tị nạn đã được trình lên Quốc hội Hoa Kỳ vào năm 1979 (Dự
thảo luật S.643). (4)
Dự thảo luật S.643 được thông qua
với tên gọi Đạo luật về Người Tị nạn năm 1980 (The Refugee Act of 1980), và đã
đưa các định nghĩa cùng nghĩa vụ pháp lý của Công ước 1951 vào luật Hoa Kỳ.
Đạo luật Người Tị nạn 1980 là cơ
sở pháp lý cho việc hình thành và vận hành của Chương trình Tiếp nhận người tị
nạn của Chính phủ Hoa Kỳ (U.S. Refugee Admissions Program – USRAP) từ đó cho đến
nay.
USRAP cũng chính là chương trình
đã bị hoãn trong vòng 120 ngày bởi Điều 5(a) của sắc lệnh cấm nhập cảnh do tổng
thống Donald Trump ký ngày 27/1/2017 vừa qua, trước khi tòa liên bang Mỹ tại địa
hạt Tây Washington ban hành lệnh đình chỉ tạm thời việc thi hành sắc lệnh này.
Thuyền nhân VN thế kỷ 20 và người
tị nạn Syrian hiện nay. Ảnh: Danny Nguyen/taskandpurpose.com.
Quy trình thẩm định và cứu xét
người tị nạn tái định cư vào Mỹ hiện nay
Một người đã được Cao ủy LHQ xác
nhận tư cách tị nạn, nếu muốn được tái định cư ở Mỹ còn phải trải qua quy trình
thẩm định riêng của Mỹ. Thuyền nhân Việt Nam, cho đến những năm cuối thập niên
1980, đã được Cao ủy LHQ và Mỹ lập tức cho hưởng quy chế tị nạn khiến cho thời
gian chờ đợi cứu xét được rút ngắn. (5)
Thế nhưng hiện nay, tình cảnh của
người tị nạn Syria lại không được khả quan như thế.
Theo thủ tục hiện hành, sau khi
trải qua vòng thẩm định kéo dài ít nhất 2 năm của Cao ủy LHQ và được công nhận
tư cách tị nạn, một người muốn hưởng quy chế tị nạn của Hoa Kỳ sẽ phải tiếp tục
trải qua một quy trình kéo dài từ 18-24 tháng (theo một báo cáo của Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ năm 2014).
Quy trình thẩm định của Hoa Kỳ
bao gồm sự tham gia của 8 cơ quan liên bang của Bộ Ngoại giao và Bộ An ninh Nội
địa, với sự tra cứu dữ liệu từ 6 cơ sở dữ liệu quốc gia. Người nộp đơn còn phải
trải qua 5 kỳ kiểm tra lý lịch đặc biệt, 4 lần kiểm tra an ninh sinh trắc, 3 cuộc
phỏng vấn cá nhân, và 2 lần kiểm tra an ninh liên cơ quan.
Nếu Bộ Ngoại giao xác định một
trường hợp đủ tiêu chuẩn tị nạn, hồ sơ này sẽ được chuyển đến 1 trong 9 tổ chức
NGO (6 trong đó là các tổ chức về tôn giáo và tín ngưỡng) để các tổ chức này tiến
hành các thủ tục bảo trợ. Sau khi người tị nạn đến Mỹ, thì cũng chính các tổ chức
này sẽ đứng ra giúp họ tìm nơi cư ngụ, việc làm, và đăng ký các dịch vụ xã hội
của chính phủ.
Không có bất kỳ quy trình thẩm định
đặc biệt nào dành riêng cho người tị nạn từ Syria để có thể rút ngắn thời gian
cứu xét như người Việt Nam đã từng được hưởng.
Ngừng nhận tị nạn, Mỹ gặp vấn đề
gì với Luật Quốc tế?
Rất rõ ràng là một số người Mỹ và
cả chính phủ của Tổng thống Trump hiện nay không đồng ý tiếp nhận người tị nạn,
đặc biệt là người tị nạn từ Syria.
Tuy nhiên, như đã trình bày ở
trên, vấn đề người tị nạn còn liên quan đến các công ước QT. Nếu thế, liệu
chính phủ Mỹ có vi phạm luật quốc tế khi quyết định dừng thi hành thủ tục tái định
cư người tị nạn Syria hay không?
Câu trả lời không đơn giản là có
hay không vì Công ước 1951 không phải là văn bản pháp lý có tính chế tài. Và do
đó, không có bất kỳ biện pháp chế tài nào đối với các quốc gia thành viên khi họ
không thực hiện cam kết.
Nguyên tắc căn bản và cũng là
nghĩa vụ quan trọng nhất mà các nước thành viên của Công ước 1951 được khuyến
nghị tuân thủ là “không hoàn trả người tị nạn” (non-refoulement) nằm ở Điều
33(1). Nguyên tắc “không hoàn trả” được hiểu là những quốc gia thành viên sẽ
không trao trả người tị nạn trở về nơi mà tính mạng hoặc quyền tự do bị đe dọa
vì lý do chủng tộc, tôn giáo, chính trị, nguồn gốc xuất xứ, hay vì họ là thành
viên của một tổ chức xã hội.
“Không hoàn trả” cũng được hiểu
là các quốc gia thành viên sẽ tiếp nhận người tị nạn dựa trên thủ tục tái định
cư mà mỗi nước được quyền tự đề xuất. Quyền không bị hoàn trả lại nơi mà họ phải
đào thoát đã được công nhận là một quyền con người theo luật QT. (Xin xem thêm
Điều 3 của Công ước Chống Tra tấn – the Convention against Torture). Các nước
thành viên Công ước 1951 sẽ chia sẻ với nhau trách nhiệm tiếp nhận người tị nạn
này.
Vì Hoa Kỳ đã ban hành một số đạo
luật liên bang để thực thi Công ước 1951 ở cấp quốc gia, các đạo luật này – và
cả Công ước 1951 – đều có thể được dùng làm cơ sở pháp lý cho những người muốn
hưởng quy chế tị nạn tại Mỹ.
Ngoài yếu tố luật pháp trong việc
xem xét liệu Mỹ có cần thực thi Công ước 1951 hay không, chúng ta cũng nên nhìn
lại nguyên tắc của chính Hoa Kỳ về việc tiếp nhận người tị nạn trong quá khứ.
Tượng Nữ thần Tự do ở New York là
biểu tượng cho truyền thống tiếp nhận người tị nạn và di dân của Mỹ. Trang:
Adam Ellis – Buzzfeed.
Trước hết, Hoa Kỳ không những là
một trong những thành viên đầu tiên của Công ước 1951, mà còn là một trong những
nước dẫn đầu việc soạn thảo nội dung của công ước và thúc đẩy các nước thông
qua sau Thế chiến thứ 2.
Đặc biệt là từ khi Hoa Kỳ mở cửa
tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam trong thập niên 70 và 80, thì họ vẫn luôn là nước
đứng đầu thế giới trong việc tái định cư người tị nạn. Theo Cao ủy LHQ, Mỹ đã
tiếp nhận trên 3 triệu người tị nạn từ khắp nơi đến định cư tại đây từ năm
1975.
Nếu nước Mỹ ngày nay từ chối thực
hiện nghĩa vụ dựa trên một công ước quốc tế trực tiếp liên quan đến quyền con
người do chính họ soạn thảo và thúc đẩy các nước khác tham gia như Công ước
1951, thì tiếng nói của họ sẽ giảm đi sức mạnh khi yêu cầu các quốc gia như Việt
Nam hay Trung Quốc thực hiện những công ước QT khác, ví dụ như Tuyên ngôn QT về
Nhân quyền hay Công ước LHQ về các Quyền Dân sự và Chính trị.
Cái mà nước Mỹ có thể mất đi khi
từ chối người tị nạn Syria chính là vị thế lãnh đạo của mình trên chính trường
thế giới và trong các cuộc đối thoại về nhân quyền với các nhà nước độc tài, chứ
không chỉ là việc phải đối mặt với chế tài từ một công ước QT.
Tài liệu tham khảo:
(1) Công ước 1951 và Quy ước 1967
về vị thế người tị nạn
(2) Refugee Settlement Facts
(3) Vietnamese Immigrants in the
United States
(4) S.643 – Refugee Act of 1979
(5) Vietnam’s Exodus is Declared
Over
Nguồn: http://luatkhoa.org/2017/02/



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét