Dạ Lãm
Socrates biết người dân thích những câu trả lời dễ dàng, và
các chính trị gia khai thác cái ham muốn đó bằng cách nói những gì người dân muốn
nghe.
Socrates là một trong những triết gia Hy Lạp cổ đại sống vào
thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Ông là thầy của triết gia Plato và được coi là
người đặt nền tảng cho triết học phương Tây.
Dân chủ chưa bao giờ là hoàn hảo. Thậm chí, nền dân chủ thuần
túy chứa đựng rất nhiều nguy cơ và đã dễ dàng tan rã trên thực tế, thể hiện qua
nền dân chủ Athens cổ đạị. Đó là lý do mà Socrates đã bày tỏ quan điểm phản đối
nền dân chủ từ cách đây hàng nghìn năm.
Winston Churchill đã từng nói: “Dân chủ là hình thái tệ hại
nhất của chính quyền, trừ những hình thái khác đã được thử nghiệm từ trước đến
nay…”
Quan điểm này thể hiện hai giá trị văn hóa mà nhiều người Mỹ
đã được dạy để không lên tiếng phê phán: tính ưu việt của dân chủ và gánh nặng
của chính quyền với vai trò là kẻ phản diện tất yếu (nguyên văn: a necessary
evil – thành ngữ ám chỉ chính quyền là cơ chế không ai mong muốn nhưng lại là tất
yếu để quản lý một quốc gia – ND)
Trong cuốn sách mới nhất của mình với tựa đề Hướng tới Dân
chủ (Toward Democracy), nhà sử học Jame T. Kloppenber (Đại học Harvard) cho rằng
những ý tưởng này nảy sinh gần đây và ban đầu chủ yếu là từ những tín đồ Tin
lành.
Họ ghi nhận rằng “các tư tưởng xem dân chủ như một học thuyết
nguy hiểm của đám đông đã được định hình lại thành một lý tưởng” trong cuốn
Kirkus. Đa số những chuyển biến này “diễn ra ở một số thuộc địa cũ của Anh quốc
mà sau này trở thành Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, nơi mà chí ít theo quan điểm của một
quý tộc Anh, nguyên tắc đám đông đã được vận dụng”.
Việc biến dân chủ thành một thứ thiêng liêng đã định hình sự
hiểu biết của chúng ta ngày nay về thuật ngữ này.
Phương Tây đã chọn kiến trúc Athen cổ điển và triết học Hy Lạp
làm biểu tượng cho dân chủ thuần khiết. Tuy vậy, những ai đã đọc tác phẩm Cộng
hòa của Plato đều biết rằng, các triết gia Hy Lạp đã rất nghi ngờ chế độ dân chủ.
Điển hình trong số này là Socrates, người mà theo Alain de
Botton trong video Trường Đời (The School of Life), “là một người cực kỳ bi
quan về toàn bộ nền dân chủ”.
Trong xã hội lý tưởng mà Socrates xây dựng, ông ủng hộ hạn
chế tự do đi lại, kiểm duyệt nghiêm ngặt theo những quy chuẩn đạo đức công dân,
một tầng lớp quân nhân bảo hộ và sự cai trị của những vị vua triết gia.
Trong Cuốn VI, Socrates chỉ ra “lỗ hổng của nền dân chủ khi
so sánh một xã hội với một con tàu”. Nếu bạn tham gia một chuyến hải trình, “ai
là sự lựa chọn lý tưởng để chịu trách nhiệm về con tàu, bất kỳ ai hay chỉ những
người được đào tạo về các quy định và yêu cầu của nghề đi biển?”
Nếu chúng ta không muốn trở thành những kẻ ngờ nghệch thì
chúng ta phải luôn chọn câu trả lời thứ hai, như Adeimantus trong cuộc nói chuyện
với Socrates. Vậy thì tại sao bất kỳ ai trong chúng ta, bất kể trình độ, kinh
nghiệm hay học vấn, lại nên được cho phép lựa chọn người lãnh đạo đất nước?
Theo quan sát của Botton, sự trớ trêu nghiệt ngã đối với
Socrates là chính bản thân ông đã bị tử hình sau cuộc bỏ phiếu của 500 công dân
Athen. Tuy nhiên, hơn cả chủ nghĩa tinh hoa điển hình về tư duy thuần quý tộc,
Socrates khẳng định rằng “chỉ nên bầu cho những ai suy nghĩ về những vấn đề một
cách hợp lý và sâu sắc”. Botton cho rằng “chúng ta đã quên sự phân biệt giữa một
nền dân chủ trí tuệ với nền dân chủ thừa kế. Chúng ta trao quyền bầu cử cho mọi
người mà không gắn nó với trí tuệ .”
Đối với Socrates, cái gọi là “nền dân chủ thừa kế”
(birthright democracy) – tức là ai được sinh ra trong xã hội dân chủ thì đương
nhiên được hưởng quyền bầu cử – chắc chắn rất dễ mị dân. Socrates biết người
dân thích những câu trả lời dễ dàng, và các chính trị gia khai thác cái ham muốn
đó bằng cách nói những gì người dân muốn nghe.
De Botton cho rằng, chúng ta nên chú ý đến những cảnh báo của
Socrates về sự cai trị của đám đông và tính nguy hiểm của trò mị dân. Botton
xem nền dân chủ như là một thứ chỉ có chất lượng tương đương với hệ thống giáo
dục xung quanh nó. Đó là một ý kiến có sức thuyết phục, và thường được nhắc lại
liên quan đến cảnh báo tương tự của Thomas Jefferson.
Dù vậy, thứ mà de Botton không nhắc đến trong đoạn phim ngắn
của mình, là Socrates cũng khuyến cáo: những người cai trị của ông đã nói dối
người dân, khiến cho người dân tin mình không phải với những lời hứa suông và
xu nịnh quyến rũ, mà họ sử dụng ý thức hệ.
Như Bách khoa toàn thư về Triết học đã tóm tắt trên
Internet, Socrates cho rằng “[giới cai trị] phải kể cho công dân một câu chuyện
huyễn tưởng; câu chuyện đó phải được các thế hệ sau tin tưởng nhằm khiến cho mọi
người đều chấp nhận vị trí của họ trong thành” – và để công nhận tính chính
danh của giới cai trị. Câu chuyện huyễn tưởng này giống như chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc và chủ nghĩa ưu sinh hiện đại. Theo đó, công dân được phân chia theo
một hệ thống phân cấp thiết yếu.
Nhưng, ai là người xác định những sự phân loại này, hay những
cử tri nào “hợp lý” hơn, hoặc là thể loại này đòi hỏi những gì? Làm thế nào
chúng ta dung hòa được những tiền đề bình đẳng của nền dân chủ với hệ thống đẳng
cấp của [Cộng hòa] không tưởng, mà trong đó “bầu cử hợp lý” có nghĩa là bầu cử
vì lợi ích của tầng lớp được bầu? Áp dụng công tác tuyên truyền để người dân chấp
nhận nhà nước thì sao?
Trong khi đó, ý tưởng về một nền dân chủ trí tuệ của
Socrates lại khá xa vời khi đặt nó trước một số nghiên cứu về thần kinh học.
Nhà khoa học về nhận thức và cũng là nhà ngôn ngữ học George
Lakoff cho rằng, “hầu hết những suy nghĩ [của chúng ta] là vô thức”. Điều này
có nghĩa là – mặc cho trình độ giáo dục và hiểu biết chuyên sâu của chúng ta
như thế nào đi chăng nữa, chúng ta “có xu hướng quyết định một cách vô thức” ở
mức độ không giải thích được, “trước khi có ý thức về chúng”, ngay cả đối với
những quyết định như bỏ phiếu.
Cũng cần phải nhận thức được một khía cạnh khác, đó là những
lời phê phán chế độ dân chủ, một mặt cảnh báo chúng ta về sự nguy hiểm của dân
chủ, mặt khác, lại được dùng để biện minh cho việc đàn áp quyền bầu cử với những
lý do chẳng có gì khách quan và sặc mùi huyễn tưởng.
***
Dạ Lãm, lược dịch từ
Why Socrates Hated Democracies: An Animated Case for Why Self-Government
Requires Wisdom & Education, Open Culture, 29/11/2016.
Nguồn: http://luatkhoa.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét