Về người Bắc Kỳ:
Về người Bắc Kỳ:
Nhằm cung cấp thêm một tài liệu về người Việt trong giai đoạn
thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, dưới đây là một vài trích đoạn trong quyển “Xứ Đông
Dương” để bạn đọc có thể tham khảo thêm góc nhìn khác từ một viên chức cao cấp
của Pháp.
Những cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam của người Trung Quốc,
người Pháp, người Mỹ… xưa nay không ít. Lẽ dĩ nhiên, là sách của người nước
ngoài nên cách nhìn bao giờ cũng đối nghịch ít nhiều với quan điểm của chúng
ta. Nhưng nếu ta biết “gạn đục khơi trong”, phê phán có chọn lọc thì đó sẽ là một
nguồn tài liệu đáng quý, giúp ta nhìn nhận sự việc được khách quan hơn.
Đôi nét về Paul Doumer
Paul Doumer từng giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ 1897 đến
1902
Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857.
Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” là một
tài liệu quý viết riêng về hành trình, nhận định và trải nghiệm của ông trong
giai đoạn 5 năm ở Đông Dương, mà phần lớn là ở Việt Nam (thời đó gọi là An
Nam).
Về con người của Paul Doumer, ông là người có kiến thức nhiều
lĩnh vực, là Bộ trưởng tài chính Pháp trước khi sang Đông Dương nhận chức Toàn
quyền. Sau này ông còn làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Quyển “Xứ Đông Dương”
ghi lại nhiều nhận định của ông về nhiều mặt: địa lý, kinh tế, hành chính, con
người, văn hóa… ở những nơi ông đi qua.
Để phục vụ nước Pháp hết mình, Doumer đã ra sức chấn chỉnh bộ
máy quản lý ở các xứ thuộc địa, đồng thời xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng tại Việt
Nam, đáng chú ý như: cầu Doumer (sau đổi tên thành cầu Long Biên) – được coi là
một kỳ quan của Đông Dương thời ấy, cầu Thành Thái (tức cầu Tràng Tiền) bắc qua
sông Hương ở Huế và cầu Bình Lợi bắc qua sông Sài Gòn.
Ông cũng chính là người đã ủng hộ và hậu thuẫn công việc
nghiên cứu của Yersin, đồng ý xây dựng thành phố Đà Lạt và đưa cây cao su vào
trồng. Dưới thời cai trị của Paul Doumer, Hà Nội là thành phố châu Á đầu tiên
có điện.
Paul Doumer hành động hoàn toàn vì lợi ích của nước Pháp.
Nhưng ông là một nhà kinh tế có tài và có tầm nhìn. Chính do vậy, người Pháp có
lợi nhưng xứ thuộc địa cũng được hiện đại hóa, Tây phương hóa.
Một số trích đoạn trong “Xứ Đông Dương” nói về người Việt
Nam trong giai đoạn giao thời giữa thế kỉ 19 và 20:
Xin lưu ý rằng, vì là trích dẫn, nên bài viết chịu ảnh hưởng
một phần bởi tính chủ quan của người chọn, không thể mang tính bao quát như
trong toàn bộ hồi ký. Các đoạn văn được trích dẫn toàn vẹn, chứ không cắt nhỏ,
để đảm bảo tốt nhất giữ nguyên ý của tác giả.
Nói về người Việt:
Người An Nam chắc chắn là tộc người ưu trội so với các dân tộc
xung quanh. Người Cao Miên, Ai Lao và Xiêm La đều không thể chống lại được họ.
Không một dân tộc nào trong Đế quốc các xứ Ấn Độ có những phẩm chất như họ. Phải
tới tận Nhật Bản mới có tộc người có phẩm chất của người An Nam và giống như
người An Nam. Người An Nam và người Nhật Bản chắc chắn có mối quan hệ thân tộc
từ xa xưa. Cả hai đều thông minh, cần cù và dũng cảm. Người lính An Nam là một
người lính giỏi, có kỷ luật và dũng cảm. Họ cũng là những người lao động mẫu mực,
những nông phu giỏi việc đồng áng, những người thợ lành nghề, những nghệ nhân
khéo léo và thông minh. So với các dân tộc khác ở châu Á, trên tư cách người thợ
và người lính, người An Nam vẫn xếp cao hơn một bậc. Vả chăng, đó là một quy luật
chung mà tôi đã kiểm chứng trên khoảng 20 chủng tộc của nhân loại, và tôi cũng
thấy rất đúng ở châu Âu: những người dũng cảm trong lao động cũng là những người
dũng cảm trong chiến tranh; nói khác đi, can đảm là một tính cách thống nhất. Nếu
người nào can đảm trước sự mệt mỏi, người đó sẽ can đảm trước nguy hiểm và trước
cái chết.
Về thiên nhiên Nam Kỳ:
Lớp đất trẻ, tương đối nông của Nam Kỳ đặc biệt thuận lợi
cho việc trồng cấy. Rất dễ canh tác trên đất đó, và đất đặc biệt phì nhiêu. Thời
vụ diễn ra rất đều đặn. Thu hoạch hằng năm, chủ yếu là lúa, có biến đổi ít nhiều
do những nguyên nhân không đáng kể; sản lượng năm này có thể cao hơn hoặc thấp
hơn năm khác về số lượng hoặc về chất lượng nhưng ít nhất cũng luôn luôn được đảm
bảo. Sản lượng thu hoạch đó dao động quanh một mức trung bình cao và không bao
giờ xuống thấp hơn mức tối thiểu, vẫn còn cao hơn nhiều mức tiêu thụ của dân
Nam Kỳ. Gạo bán ra nước ngoài, tức xuất khẩu, trong những năm tệ nhất không bao
giờ dưới 700.000 tấn. Gạo xuất khẩu có thể đạt đến một triệu tấn, tính ra thành
tiền từ khoảng 80 đến 100 triệu phờ-răng. Hồ tiêu xuất khẩu cũng là một nguồn
tài nguyên giá trị.
Gạo là nguồn tài nguyên to lớn có thể thu được không mấy khó
khăn; mỗi năm nông dân ở đây chỉ làm một vụ, và công việc đồng áng chỉ tập
trung trong ba hoặc bốn tháng. Cả đến vận tải cũng được thực hiện trong những
điều kiện dễ dàng và cực rẻ.
Đất Nam Kỳ chằng chịt hàng nghìn con sông lớn nhỏ, kênh, rạch
chạy theo mọi hướng. Nam Kỳ là nơi bằng phẳng nên thủy triều ảnh hưởng như nhau
tới tất cả các tuyến đường thủy. Như thế mỗi ngày hoạt động của triều lên và
triều xuống làm cho các dòng chảy cứ sáu tiếng chảy theo chiều này và sáu tiếng
chảy theo chiều ngược lại. Người An Nam lợi dụng điều đó để vận tải hàng hóa mà
không mất công mất sức gì nhiều. Ghe xuồng của họ xuôi dòng với sự trợ lực của
buồm hoặc mái chèo vừa đủ để có thể lái được chúng. Khi thủy triều đổi hướng mà
chưa tới được điểm đến thì họ bỏ neo hoặc buộc những chiếc tam bản vào bờ, bình
tĩnh chờ thủy triều đưa dòng nước thuận đến, và cứ như thế cho cả chuyến đi lẫn
chuyến về. Vận động thủy triều cung cấp lực miễn phí cho ngành giao thông đường
thủy. Có lẽ không có quốc gia nào trên thế giới mà cư dân lại được thiên nhiên
ưu đãi như Nam Kỳ.
Về thành phố Sài Gòn:
Một nhóm binh sĩ hải quân Pháp trên đường phố Sài Gòn. Hình ảnh
nằm trong loạt ảnh Đông Dương năm 1901 do nhiếp ảnh gia người Pháp Jules
Gervais-Courtellemont thực hiện.
Một nhóm binh sĩ hải quân Pháp trên đường phố Sài Gòn. Hình ảnh
nằm trong loạt ảnh Đông Dương năm 1901 do nhiếp ảnh gia người Pháp Jules
Gervais-Courtellemont thực hiện.
Ở Sài Gòn cũng có người Hoa, và nhiều là đằng khác, buôn bán
to nhỏ đủ loại. Bên cạnh các cửa hiệu Pháp giống như các cửa hiệu ở tỉnh lẻ bên
Pháp, tôi thấy các cửa hiệu Trung Hoa khiêm tốn hơn nhưng năng động hơn. Tất cả
mọi thứ có trong cửa hiệu của thương nhân châu Âu và cả những thứ khác nữa đều
có bán tại cửa hiệu của người Hoa; nơi này sản xuất thứ gì thì nơi khác cũng sản
xuất thứ đó. Đây là một cuộc cạnh tranh có lợi cho người tiêu dùng. Đối với các
mặt hàng rẻ tiền, đối với các công việc đơn giản, sự cạnh tranh không còn nữa
vì chỉ còn lại người Hoa. Khi ta muốn có những bộ quần áo lịch sự, một chiếc đầm
đi dạo hoặc ăn tối, một bộ smoking mà không cần đặt từ Pháp sang thì thay vì
tìm cô thợ may người Pháp, ta cứ đặt người Hoa ở đây may những chiếc váy nhẹ,
những bộ quần áo bằng vải lanh. Các dịch vụ giặt, là, mạng vá cũng là nghề của
họ. Họ là những thợ khéo léo và quý hóa không từ chối một yêu cầu nào. Họ chịu
làm mọi việc. Người An Nam ở Nam Kỳ không tranh việc với họ. Nam Kỳ quá giàu
có, cuộc sống quá dễ dàng nên chỉ gắng sức tí chút là người ta đã tìm được việc.
Người ta thấy chỉ có sự gia tăng dân số của người An Nam có thể dẫn tới việc
dòng người đổ vào thành phố và đẩy lùi người Hoa. Nhưng cho đến nay, sự gia
tăng đất canh tác thậm chí còn nhanh hơn sự gia tăng dân số nên hiện tượng trên
không thể xảy ra.
Sài Gòn là một thành phố nhiệt đới xinh đẹp, thành phố duyên
dáng nhất vùng Viễn Đông. Một số công trình nghệ thuật ở Sài Gòn rất đẹp; tất cả
đều có kích thước lớn; nhà cửa nói chung khá xinh xắn, đường phố rợp bóng cây,
tất cả như bị ngập trong một đại dương xanh. Nhìn từ trên cao xuống, từ chòi
quan sát trên nóc một con tàu hoặc từ các tháp của nhà thờ, Sài Gòn hiện ra như
một công viên rộng lớn, trong đó một vài tòa nhà quá đồ sộ hoặc quá cao vượt
lên khỏi những tán cây. Này là Dinh Toàn quyền, các trại lính, bệnh viện, Sở
Bưu điện, Dinh Thống đốc, Sở Thuế quan…; các công thự đó không chịu thua những
tán cây muốn chiếm lĩnh trời xanh, luôn luôn vươn lên và trải rộng nhờ nhựa sống
của thiên nhiên hào phóng.
Về người Bắc Kỳ:
Người An Nam ở Bắc Kỳ cần cù chịu khó, còn hơn cả người Nam
Kỳ. Họ vạm vỡ hơn, cường kiện hơn. Khí hậu thì khá khắc nghiệt; họ không được
thiên nhiên ban tặng những điều kiện thuận tiện cho sản xuất và vận tải. Bị bó
buộc trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi họ sống chen chúc, dân An Nam
buộc một vùng đất chật hẹp phải sản sinh ra rất nhiều sản phẩm. Công việc đồng
áng làm họ mất hầu hết thời gian trong năm. Những việc vận chuyển giao thông, hộ
đê, tạp dịch và những việc vặt thường nhật lấy gần hết toàn bộ thời gian còn lại.
Họ làm việc tích cực không ngừng nghỉ.
Về các thợ thủ công:
Cầu Long Biên ngày nay (ảnh: vnphoto.net)
Các thợ thủ công Bắc Kỳ làm việc chăm chỉ và thuần thục. Họ
thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong các công việc đòi hỏi tỉ mỉ và tinh xảo.
Họ có khiếu thẩm mỹ, và một số người trong bọn họ là những nghệ nhân thực sự.
Những thợ đúc đồng, thợ kim hoàn, thợ khảm men huyền, thợ thêu, thợ điêu khắc,
thợ khảm đã tạo được một tiếng tăm xứng đáng. Họ không phải là những người thợ
bắt chước một nền nghệ thuật ngoại quốc. Dẫu vẻ bề ngoài của những sản vật lộ
rõ mối quan hệ với những đồ vật Nhật Bản và Trung Hoa, thì chúng vẫn không phải
được lấy cảm hứng từ đó; những người thợ đã tạo ra một nghệ thuật An Nam, với
các hình mẫu và cách trang trí của chính họ.
[…]
Các thợ thêu trên lụa làm việc với một kỹ thuật không thể
sánh được. Về mặt chăm chút và hoàn thiện công việc, đồ thêu ở Bắc Kỳ được làm
tinh hơn đồ của Nhật Bản và Trung Hoa. Nhưng vào năm 1897, các bức thêu mang
giá trị trang trí còn rất thấp. Đó là những bức thêu cảnh sinh hoạt của người
An Nam hoặc các trận chiến huyền thoại, với một đám đông những nhân vật nhỏ
xíu, con giống, đồ vật mà ta có thể ngưỡng mộ các chi tiết, nhưng về toàn cảnh
chẳng có gì đẹp lẫn dễ coi. Kể từ đó trở đi, các thợ thêu An Nam đã lấy từ hệ
thực vật phong phú của mình những nhân tố để tạo thành tác phẩm của họ. Họ đã
thành công trong việc đem lại cho những tấm lụa thêu một hiệu ứng trang trí
ngang tầm với người Nhật Bản, và họ đã không đánh mất sự ưu trội về tay nghề của
họ.
Đồ gỗ gia dụng An Nam do những thợ chạm gõ chế tạo, và chủ yếu
gồm ghế tựa, bàn và tủ chè, có đường nét và hoa văn rất đẹp. Các bộ trường kỷ,
món đồ trang trí trong những ngôi nhà truyền thống và trong đền chùa, hầu hết đều
mang những nét đối xứng hài hòa; các hình chạm khắc trang trí trên đó thì đơn
giản và thường rất đẹp. Nhưng sự thành công rực rỡ của người An Nam là nghệ thuật
khảm trai trên gỗ. Họ đã khiến cho những bộ tủ chè và những thứ đồ gỗ nhỏ khảm
trai như vậy của vùng này trở nên thực sự đáng chú ý và họ đã nổi danh ở vùng
Viễn Đông. Những thợ khảm trai Trung Hoa, những người hình như đã truyền nghề của
mình cho dân An Nam thì còn lâu mới sánh ngang hàng được với học trò của mình.
Về giáo dục:
Trong các trường làng, người ta dạy các chữ căn bản. Những
quyển sách tập đọc mà họ trao vào tay lũ trẻ thì đúng là những tiểu kiệt tác thực
sự, trong đó thể hiện tinh thần đạo đức của Khổng Tử với một ngôn ngữ đơn giản
và đẹp, khắc ghi vào trí óc trẻ thơ. Ta chuyển từ quyển thứ nhất, hết sức đơn
giản, hết sức cơ bản, dạy cho ta những phép tắc lễ nghĩa đầu tiên, lên đến quyển
thứ hai là những vấn đề rộng hơn, sau đó lên quyển ba và cứ tiếp tục như thế.
Đa phần các trường làng thấy rằng dạy chừng từ bốn đến năm quyển là đủ. Bọn trẻ
học ở đó, cùng với một lượng chữ đủ để viết và trao đổi trong những tình huống
đơn giản mà họ gặp nhau, những nguyên tắc đạo đức và những quy định ứng xử sẽ
theo họ trong suốt cuộc đời. Đây hiển nhiên là một nền giáo dục chưa hoàn chỉnh;
tuy nhiên nó đủ để làm cho một dân tộc cần cù, gắn bó với nhiệm vụ gia đình, hạnh
phúc về mọi mặt khi những vấn đề bên ngoài không khiến họ lo lắng ưu phiền.
Về tre Việt Nam:
Người dân Đông Dương dựng nhà bằng tre; mặt khác, kể cả khi
một căn nhà được xây bằng gạch thì nó vẫn được bao bọc bởi một lũy tre lớn mà bản
thân nó cũng đã chính là một công trình. Bờ rào, những chòi canh để trông coi
hoặc để nghỉ chân khi đi săn, những cọc cừ bằng tre để ngăn sông xói mòn đất,
những chiếc tời, vó và cần câu, tất cả các loại đồ dùng và dụng cụ đều được làm
bằng tre. Khi đi đường, nếu cần dựng tạm lều trại, người An Nam cũng dễ dàng
làm được khi có những cây tre ở ngay gần.
Đô đốc Pottier (ảnh trích từ sách)
Tôi vẫn còn nhớ một ngày nọ ngài Đô đốc Pottier đã vô cùng sửng
sốt thán phục khi được cây tre cứu khỏi tình huống khó khăn trên mạn thượng lưu
sông Hồng. Tôi và vị Đô đốc tài giỏi này đã gặp nhau tại Lào Cai nơi chúng tôi
cùng khánh thành cây cầu mà tôi đã cho xây dựng tại Nậm Thi để phục vụ cho tuyến
đường sắt và đường bộ nối với Vân Nam. Lúc đó khoảng tháng Một năm 1902. Được
tháp tùng bởi hai sĩ quan phụ tá và một đội lính khố đỏ hộ tống, ngài Đô đốc
lúc đi xe kéo, lúc đi kiệu trên con đường bộ bên sông hoặc tuyến đường sắt đang
được xây dựng. Không phải cả 200 hay 250 cầu đường sắt đều đã thi công xong,
nên việc đi lại vẫn khó khăn và chậm chạp.
Lịch trình đã được sắp xếp sao cho đoàn có thể ăn trưa, hoặc
ít nhất là ăn tối và nghỉ ngơi tại một ngôi làng, hoặc trong một đồn bốt. Buổi
chiều hôm ấy, ngài Đô đốc đã thấm mệt và chỉ có thể tiếp tục hành trình khi đã
khá muộn và không theo đúng lịch trình đã lập. Màn đêm dần buông trong khi cả
đoàn vẫn còn cách khá xa bốt nghỉ, nơi đã chuẩn bị sẵn đồ ăn và chăn. Họ buộc
phải tạm nghỉ, nơi dừng chân là vùng đất nguy hiểm có hổ rình rập nên họ không
đi tiếp được khi mặt trời đã lặn. Làm sao có thể ăn uống và nghỉ ngơi ở một nơi
hoang dã như thế? Đoàn hộ tống có một ít gạo dự trữ của lính khố đỏ và vài hộp
thức ăn Âu, nhưng chẳng có đồ dùng nào khả dĩ để nấu ăn, và cũng không có gì để
che chắn hay để tự vệ đề phòng sự tấn công của dã thú. Thật may là có những rặng
tre mọc hai bên bờ sông Hồng, và những người lính khố đỏ thì không rời tay khỏi
những thanh mã tấu, một loại kiếm nhỏ hay dao dài bản địa. Với những thứ đó,
ngài Đô đốc có thể yên tâm: ông sẽ có một chỗ nghỉ ngơi và ăn uống.
Không để mất thời gian, những người lính bắt tay ngay vào
công việc. Chỉ trong vài phút, một hàng rào bằng tre dài và chắc chắn đã được dựng
lên tạo thành một khu trại đủ rộng. Họ đã giải quyết được vấn đề dã thú. Sau đó
ba chiếc lều được dựng, một cho ngài Đô đốc, một cho những sĩ quan, cái còn lại
cho binh lính hộ tống. Ngài Đô đốc và những viên sĩ quan trong hoàn cảnh này đã
có thể nghỉ ngơi thoải mái với những chiếc chõng tre, cao khoảng 40 đến 60
xăng-ti-mét và đàn hồi như một tấm nệm lò xo cùng những chiếc gối tiện dụng. Một
ống tre lớn còn nguyên cả mắt, vốn chứa nước rất tốt, được khéo léo cắt từng
khúc thành một cái gáo, cũng có thể coi là bát, xô hay chậu. Nhờ đó, trong khi
những căn lều lán được dựng lên và hoàn tất, những người lính đi kiếm và lấy nước
vào những gáo tre, nhóm lửa và chuẩn bị bữa tối. Gạo và đồ hộp được nấu trong
những chiếc nồi kỳ lạ làm từ những cây tre. Vậy là chẳng khó gì để có được một
bữa ăn, nhưng khi Đô đốc Pottier nhìn những thanh mã tấu trong tay của những
người lính đẽo gọt ra những chiếc đĩa, thìa và cả những chiếc dĩa bằng tre cũng
có ba răng y như dĩa thật, ông thấy đó quả là một sự khéo léo phi thường! Rất
lâu sau khi trở về Pháp, ngài Đô đốc vẫn kể lại câu chuyện và rất vui vẻ khoe một
chiếc chăn kỳ diệu, vốn được làm ra cấp thời cũng như căn lều và bữa tối của
ông trong một thung lũng ở thượng lưu sông Hồng. Ông ghi nhớ những kỷ niệm về một
buổi tối mà ông bất ngờ trải qua như thế cũng như về sự khéo tay đến kinh ngạc
của những người An Nam.
Về tệ nạn trong hệ thống quan lại và thái độ của Pháp:
Triều đình An Nam vẫn hoạt động tốt gần giống với tình trạng
trước khi bị nước Pháp chinh phục. Hệ thống quan chế tại các tỉnh thành vẫn giữ
nguyên; việc cai trị cũng vậy. Các quan lại sống tại những dinh thự đẹp đẽ được
xây xựng theo kiểu hệ thống Vauban; họ cai trị, hành pháp và thu thuế dưới danh
nghĩa triều đình. Quyền cai trị, hành pháp và thu thuế là những nguồn lợi trực
tiếp của họ, là hối lộ biếu xén và mọi loại bổng lộc khác. Đương sự của các vụ
kiện, những người nộp thuế và những kẻ nô dịch sẽ dâng lên tất cả những gì họ
có; những viên quan to hay nhỏ đều cố gắng bòn rút tối đa từ dân, và phần được
đóng vào quốc khố chỉ là phần còn lại mà bọn họ không thể ăn chặn được.
Đó là chế độ quân chủ quan liêu cũ trong đó các quan lại lạm
dụng quyền hành trên mọi mặt, mà không có dáng vẻ trung thực tự tại như những
quan lại xưa kia. Những khiếm khuyết và những tệ nạn trong hệ thống vẫn tiếp tục
hoành hành. Sự kiểm soát từ cấp cao nhằm ngăn chặn tệ nạn này bùng phát bằng
hình phạt nếu cần thiết, rốt cuộc đã bị vô hiệu hóa và tê liệt. Đây không phải
là một cuộc khủng hoảng hay một vấn nạn mà chính quyền Pháp cần quan tâm, cũng
không phải là cái cớ để chúng ta can thiệp. Và như thế, vị Khâm sứ của chúng ta
tại Huế hài lòng với việc giám sát Đức vua và triều đình, mà không cần hợp tác
với họ; và ngay cả các Công sứ Pháp của chúng ta tại sáu hoặc tám tỉnh lớn vốn
có nhiệm vụ đảm bảo việc duy trì trật tự mà không cần hợp tác với quan lại cũng
không có nhiệm vụ kiểm soát các hành vi của quan lại. Chúng ta chỉ giới hạn ở mức
bảo hộ cơ bản và đã không quan tâm đến việc cai trị cũng như tác động của nó
lên sự phát triển kinh tế.
Có thể cho đến lúc đó chúng ta chưa thể làm tốt hơn và tiến
xa hơn. Nhưng dù sao đi nữa thì nhất định không thể để tình hình này kéo dài
hơn nữa. Cho dù là vì lợi ích của nước Pháp hay là vì lợi ích của người dân An
Nam, thì đều cần phải áp dụng những phương thức quản lý và những chính sách
kinh tế của nền văn minh châu Âu vào đất nước này. Nhiệm vụ này đặc biệt thú vị,
tất cả cần phải được thực hiện từ đầu và chúng ta có thời gian, chúng ta có thể
phát triển một kế hoạch toàn diện và tiến hành nó một cách nhịp nhàng, có
phương pháp, không hấp tấp, không phô trương.
Trích “Xứ Đông Dương”
Dịch bởi: Lưu Đình Tuân, Hiệu Constant, Lê Đình Chi, Hoàng
Long, Vũ Thúy
Nguyễn Thừa Hỷ hiệu đính
Nguồn: http://nghiencuuquocte.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét