Nguyễn Đình Cống
5- CHUẨN BỊ ĐI LÀM CHUYÊN GIA
Vào thời kỳ 1980-85 việc xuất khẩu lao động mở ra hy vọng
cho nhiều người. Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (hồi đó Bộ Giáo dục và Bộ
Đại học & Trung học chuyên nghiệp còn tách riêng) cùng Bộ Y tế lo về việc gửi
chuyên gia sang Châu Phi, Bộ Lao động lo gửi công nhân sang Liên Xô và Đông Âu.
Việc gửi công nhân tương đối đơn giản vì chủ yếu tuyển thanh niên, dựa vào lý lịch,
tập trung huấn luyện một đợt ngắn. Tuyển chuyên gia phức tạp hơn vì phải chọn
người có trình độ cao đang làm việc trong các cơ quan nhà nước.
Có 3 tiêu chí
được dựa vào: sức khỏe, ngoại ngữ và chuyên môn. Về sức khỏe, phải qua được một
hội đồng khám xét qua loa và tuổi chưa quá 60. Về chuyên môn, chủ yếu dựa vào bằng
cấp. Kiểm tra ngoại ngữ là chủ yếu. Đi các nước Angiêri, Công gô, Mađagasca cần
tiếng Pháp, đi Ănggôla cần tiếng Bồ Đào Nha. Với chuyên gia giáo dục kiểm tra 3
vòng. Vòng 1 là kỳ thi các kỹ năng nghe, viết, chung cho mọi người. Qua vòng 1
thì được tham gia lớp học và thi vòng 2 về giảng bài theo từng ngành chuyên
môn. Sau đó được vào Sứ quán nước bạn để tùy viên văn hóa phỏng vấn trực tiếp.
Về hình thức, việc kiểm tra là nghiêm ngặt, nhưng thực tế vẫn để lọt một số người
không đạt yêu cầu, đến khi các vị ấy trực tiếp làm việc với sinh viên và tập thể
các thầy giáo mới bộc lộ sự yếu kém, thậm chí có một vài người bị đuổi về nước
chỉ sau vài tháng không thể dạy được.
Đối với số ít đã khá thành thạo ngoại ngữ, việc qua 3 cửa ải
khá dễ dàng, còn đối với số đông thì cũng khá vất vả, phải bỏ công sức và học
phí để theo các lớp .
Hồi ấy, đời sống quá khó khăn, nhiều gia đình trí thức lo
‘chạy ăn từng bữa toát mồ hôi’, thì giờ đâu, công sức đâu mà học. Họ vui mừng
khi kiếm được miếng đất để trồng rau, nuôi được con gà con lợn. Câu chuyện quan
trọng của các bà vợ khi gặp nhau là trao đổi kinh nghiệm trong việc nuôi gà,
nuôi lợn. Khá nhiều thầy giáo, kể cả tiến sĩ, giáo sư, ngoài công việc qua quýt
ở lớp, ở trường thì lo băm rau, thái bèo, nấu cám. Tôi có gặp may là tiếng Pháp
tạm được, không phải đi học ở các lớp, nhưng vẫn phải tự học thêm. Tôi bị một số
người chê trách là chỉ lo công việc khoa học mà ít quan tâm đến việc giúp vợ nuôi
lợn.
Trong tình hình ấy tôi tâm sự với bạn bè, rằng nuôi gà, nuôi
lợn đều tốt nhưng sẽ tốt hơn là nuôi người, chỉ ngại là có người xứng đáng mà
nuôi hay không. Người xứng đáng là người có ý chí, có nghị lực, có trí tuệ.
Trong gia đình người đó có thể là chồng, là vợ hoặc con. Vợ tôi không bắt tôi
băm bèo, nấu cám vì bà ấy thấy nuôi cho tôi học hành tử tế để đi làm chuyên gia
sẽ có hiệu quả cao hơn. Một số bà nói rằng họ thấy chồng có trí tuệ, rất muốn
chồng đi học bổ túc ngoại ngữ để dự thi làm chuyên gia, nhưng vì trong nhà
không kiếm đâu ra tiền đóng học phí. Tôi thấy trong nhà có giường và tủ bằng gỗ
lát còn rất mới. Hồi ấy trong nhà có 2 thứ đó là đáng tự hào. Tôi chỉ vào giường
và tủ, khen rằng đẹp, quý, đem bán đi có thể kiếm đủ tiền cho chồng đi học. Trước
mặt tôi bà vợ bạn chỉ ậm ừ, nhưng sau đó, khi kể chuyện với người khác bà ta
lên án tôi, đã xui dại. Vợ chồng bà ta mất bao nhiêu công sức nuôi gà nuôi lợn
mới sắm được cái giường, cái tủ gỗ lát, thế mà có người lại đề nghị đem bán đi,
thế có đểu không. Tiếc thay cho một trí tuệ bị cùn mòn đi do phải băm bèo, nấu
cám nuôi lợn theo sự chỉ đạo của người vợ có tầm nhìn hạn hẹp.
Có một số thầy giáo, khi biết có thể đi làm chuyên gia thì
đã hết sức chuẩn bị để đi cho bằng được. Họ chủ yếu không nhằm vào việc kiếm tiền
mà nhằm vào mục tiêu khác cao đẹp hơn. Về lý lịch, họ là những trí thức loại 3
theo sự sắp xếp bí mật của tổ chức, trước đây họ không được cho ra nước ngoài để
học tập hoặc nghiên cứu. Được tuyển đi làm chuyên gia là dịp tốt, dịp may hiếm
có để họ được ra nước ngoài.
Xin dừng lại một chút để viết về các loại trí thức.
Năm 1956 Nhà nước bắt đầu mở rộng việc đào tạo đại học, mở
thêm 5 trường đại học mới trong lúc còn rất thiếu thầy giáo. Năm 1960-61 sinh
viên khóa 1 của các trường đại học ( 5 trường mới mở ) tốt nghiệp ra trường. Một
ít trong số họ được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, bổ sung cho đội ngũ thầy giáo
còn thiếu. Những người chịu trách nhiệm chính trong việc này là các ông Tạ
Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên. Các ông đề ra tiêu chuẩn số 1 để
chọn thầy giáo là phải học giỏi. Hồi ấy số sinh viên học giỏi xuất thân từ
thành phần công nông rất ít, đa số có thành phần xuất thân là địa chủ, phú
nông, tư sản… Việc trong hàng ngũ trí thức ở các trường đại học có quá nhiều
người không xuất thân từ công nông đã bị Tuyên giáo đảng phát hiện và chấn chỉnh.
Trí thức được chia làm 4 loại. Loại 1 thuộc thành phần cơ bản, xuất thân từ
công nông, được ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng, được cho đi học thêm ở nước
ngoài. Loại 2, xuất thân không phải từ công nông nhưng có giác ngộ, được cho đi
học thêm có điều kiện. Loại 3 được sử dụng nhưng không được cử đi học thêm ở nước
ngoài. Loại 4, có vấn đề về lý lịch, phải tìm cách loại bỏ. Số trí thức loại 3
tương đối đông, nhiều người đã bằng cách tự học để vươn lên, nhưng khả năng được
ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh để bảo vệ học vị tiến sĩ hầu như bị chặn đứng.
Đa số họ đã tự nghiên cứu, làm luận án và bảo vệ học vị ở trong nước (từ 1974
trở về sau). Bây giờ việc đi làm chuyên gia đã mở ra cho họ con đường ra với thế
giới.
Trở lại với việc học ngoại ngữ. Những chuyên gia các đợt đầu
tiên (từ 1982 đến 1985) phần lớn giỏi ngoại ngữ. Ban đầu cứ tưởng rằng để dạy
được chuyên môn bằng Pháp ngữ thì thầy phải thật giỏi tiếng Pháp, thế nhưng
không hoàn toàn đúng như thế. Trừ một vài môn về khoa học xã hội, nhân văn cần
phải giỏi ngôn ngữ, còn các môn tự nhiên như toán, lý, hóa, các môn kỹ thuật
như cơ khí, điện, xây dựng, v.v. thì để lên lớp giảng bài chỉ cần một vốn ngôn
ngữ vừa phải. Để giảng các môn vừa nói chỉ cần nhớ kỹ vài chục câu mẫu, quan trọng
là phải nắm vững các thuật ngữ chuyên môn. Trình độ ngoại ngữ sẽ cần hơn khi phải
làm việc riêng với sinh viên, khi tham gia sinh hoạt tập thể. Nhận xét vừa rồi
được các chuyên gia lớp trước truyền cho lớp sau, làm cho một số người tưởng nhầm
rằng có thể đi làm chuyên gia khi chưa thành thạo ngoại ngữ, đến mức ngoài giờ
giảng bài họ không dám tiếp xúc với sinh viên và người nước ngoài, thậm chí bị
lúng túng khi gặp một số mẫu câu chưa được học thuộc. Vài người đã bị phát hiện
quá kém, bị cắt hợp đồng, cho về giữa chừng (đúng ra là bị đuổi việc). Đó là một
nỗi nhục của tập thể chuyên gia.
Làm sao qua 3 lần kiểm tra, về hình thức thì rất chặt chẽ mà
để lọt một số người chưa đủ tiêu chuẩn? Tôi hỏi chuyện một vài người có liên
quan, được biết nguyên nhân chủ yếu để lọt vào đội ngũ chuyên gia một số người
trình độ quá kém là sự thông cảm, nể nang khi xét tuyển. Người dự tuyển tự biết
mình còn kém nhưng cứ lo chạy chọt, xin xỏ, may ra được thông cảm. Hội đồng xét
duyệt biết rõ người dự tuyển quá kém, chưa đủ trình độ, nhưng thông cảm hoàn cảnh
khó khăn, chiếu cố cho đi để mong kiếm ít đô la cải thiện đời sống. Họ có biết
đâu chuyện: «Đem chuông đi đánh nước người. Đánh không thành tiếng hổ ngươi
xách về»? Than ôi! Một số hội đồng của VN quen thói ban ơn, lừa dối người trong
nước, tưởng rằng có thể lừa được người nước ngoài. Đâu có dễ thế! Biết đâu rằng
chứng nhận cho người không đủ trình độ đi làm chuyên gia họ đã góp phần làm nhục
đội ngũ trí thức của đất nước. Họ không biết rằng chứng nhận cho một người có đủ
năng lực mà thực ra người đó chưa có đủ, tưởng là lòng tốt giúp người ta nhưng
thực tế đã làm một việc dối trá, làm hại người ta và nhiều người khác có liên
quan. Tôi nghĩ rằng những người bị đuổi về có thể kiện hội đồng xét duyệt ra
tòa án. Cũng may là đa số chuyên gia Việt Nam là những người giỏi thật sự, họ
đã gỡ gạc lại được phần nào uy tín.
GS. Vũ Công Ngữ, một chuyên gia cơ học đất, đi năm 1985, hè
1986 về nghỉ phép, tôi đến thăm để hỏi kinh nghiệm. Xin tóm tắt câu chuyện của
GS Ngữ: «Chúng tớ sang đến nơi hơi muộn, nhiều môn học đã được phân cho các
chuyên gia các nước đến trước. Tớ thăm dò biết được môn Cơ học đất đã được phân
cho một thầy trẻ người Ba Lan. Khi gặp Trưởng khoa để nhận môn dạy, tớ nói, tôi
là giáo sư, tôi có thể dạy bất kỳ môn học nào do các ông phân công. Tuy vậy,
xin nói để các ông biết tôi là chuyên gia trong lĩnh vực Cơ học đất. Tôi biết
môn này các ông đã phân cho thầy khác. Nếu thầy đó giỏi hơn tôi thì cứ để ông ấy
dạy, phân cho tôi môn nào cũng được. Còn nếu không phải như thế, để tôi dạy môn
Cơ học đất thì người được hưởng lợi là sinh viên của các ông. Không những thế,
ngoài việc dạy cho sinh viên tôi còn có thể bồi dưỡng cho thầy giáo của các ông
về lĩnh vực quan trọng này. Thế là hôm sau trưởng khoa mời thầy giáo trẻ Ba Lan
lên, cho nhận môn khác còn để môn Cơ học đất cho tớ…».
Đó là bài học hay. Khi đến nhận việc tôi nói với Trưởng
khoa: «Tôi là giáo sư, có thể dạy nhiều môn học khác nhau. Tuy vậy tôi là
chuyên gia của Việt Nam trong lĩnh vực Kết cấu bê tông, vậy nếu tôi được dạy
môn đó thì sẽ có lợi nhiều cho sinh viên của các ông». Đúng như GS. Ngữ và tôi
đã nói và làm, mình phải xuất phát từ cái lợi của đối tác để thảo luận thì dễ
được chấp nhận. Thực chất thì ngoài cái lợi cho họ thì cũng là vì cái lợi của
mình lớn hơn. Nếu phân cho ông Ngữ dạy Kết cấu bê tông và phân cho ông Cống dạy
Cơ học đất thì các ông cũng dạy được nhưng sẽ vất vả hơn vì phải mất nhiều công
để chuẩn bị.
Trường hợp được dạy đúng môn sở trường của mình như tôi và
anh Ngữ không nhiều. Một số thầy phải nhận dạy các môn khác. Xin đơn cử vài vị.
Thầy Cơ học kết cấu Vũ Như Cầu được giao dạy bài tập Toán; thầy Kết cấu Bê tông
cốt thép Nguyễn Lê Ninh dạy Vật liệu xây dựng và Động lực học; thầy Thiết kế và
thi công đường Dương Học Hải dạy Trắc địa; chuyên gia về thủy lực và thủy công
Nguyễn Trọng Thao được phân dạy Sức bền vật liệu; thầy về thi công Nguyễn Văn
Quỳ được phân môn Kết cấu bê tông; chuyên gia thiết kế cầu đường GS. Nguyễn
Phúc Trí được phân dạy Quy hoạch thủy lợi; GS. ngành cầu Lê Văn Thưởng dạy Kết
cấu thép, v.v. Rồi các thầy cũng dạy được cả vì đều thông thạo tiếng Pháp,
nhưng phải chuẩn bị bài vất vả hơn so với các thầy được dạy đúng chuyên môn. Đã
đi làm thuê để kiếm đô la thì khó chọn được việc vừa ý.
6- DẠY VÀ HỌC Ở ANGIÊRI
Khi viết lý lịch để xin đi làm chuyên gia, chúng tôi đề chữ
KHÔNG ở mục Tôn giáo với thói quen và niềm tự hào từ thời trẻ, được dạy rằng,
như thế mới là người theo duy vật, thuộc thế hệ làm cách mạng vô sản. Người của
Bộ Ngoại giao yêu cầu chúng tôi tạm quên thói quen và niềm tự hào ấy, viết lại
lý lịch. Phải khai theo một tôn giáo nào đó (Phật, Thiên Chúa, Tin Lành, Cao
Đài, Hòa Hảo… gì cũng được), không được ghi là người không theo tôn giáo nào.
Người ta cho như thế là kẻ vô đạo, vô thần. Mà như vậy thì dù bạn có tài giỏi đến
đâu cũng bị loại ngay từ đầu (có dấu hiệu nói dối).
Tổ chức dạy học ở Angiêri có nhiều điểm khác với Việt Nam.
May cho tôi, khi đến nhận việc thì tại trường đó (INES de Chlep) đã có vài anh
đã dạy một hai năm như Ngô Phú An, Vũ Như Cầu, Nguyễn Lê Ninh. Khi tôi hỏi về
các điều cần biết thì các anh chỉ bảo tận tình. Một số thầy quá quen với cách
làm ở VN, chủ quan, cứ tưởng đó là mẫu mực có thể áp dụng cho mọi nơi nên đã gặp
lúng túng trong thời gian đầu, gây ra những chuyện buồn cười. Xin kể vài chuyện.
Thầy Đào, đến sau tôi một thời gian. Sau khi anh ổn định chỗ
ở, tôi đến chơi, có gợi ý xem anh có cần các bạn đã đến trước mách bảo gì
không, nhưng anh tỏ ra không cần. Nghĩ rằng anh đã biết những «phong tục» ở đây
nên tôi không dám tự tiện chỉ dẫn, ngại phạm vào lỗi bày vẽ cho người khác điều
họ đã biết, không cần nghe.
Hôm đầu tiên anh lên lớp về, tỏ ra khó chịu, đến gặp tôi để
thổ lộ nỗi bực dọc. Anh nói: «Này, tớ lạ cho cái đất nước này, chẳng ra sao cả.
Theo thời khóa biểu tớ đến đúng lớp, đúng giờ nhưng không có sinh viên nào
trong lớp, bọn chúng tụm năm, tụm ba ở bên ngoài. Tớ hỏi, có phải các cậu là
sinh viên của lớp này không, chúng bảo phải. Thế sao không vào lớp. Trả lời:
chúng tôi đang đợi thầy giáo. Tớ bảo chính tôi là thầy giáo đây, các cậu vào lớp
đi, đến giờ học rồi. Chúng nó bảo ông đã đến chậm giờ, xin mời ông vào trước.
Nhường nhau một lúc tớ đành vào trước vậy. Khi lớp đã ổn định tớ chuẩn bị bắt đầu
bài giảng thì thấy không có phấn và trên bảng đen có vài vết cần xóa, thế mà
không thấy giẻ lau. Tớ hỏi ai trực nhật hôm nay. Không ai trả lời. Hỏi tiếp ai
là lớp trưởng, không ai trả lời. Một lúc sau có 1 sinh viên đứng dậy hỏi: Thưa
thầy, ông hỏi những người đó để làm gì. Tớ nói là đi lấy phấn và giẻ lau bảng,
đồng thời trực nhật phải lau bảng sạch sẽ trước khi thầy vào dạy. Cậu sinh viên
nói: Đó là việc của các thầy giáo, không phải việc của sinh viên, chúng tôi
không có ai làm trực nhật cả. Hôm nay thầy mới đến, tôi đi lấy giúp, từ hôm sau
ông phải tự lo lấy. Đến khi hết giờ, trong lúc mình đang chuẩn bị thu xếp thì
chúng nó kéo nhau ra trước, không có được cái lễ phép tối thiểu chờ thầy ra
xong mới ra. Thế có ngược đời không, có đáng chấn chỉnh không».
Tôi vỗ vai Đào, cười mà bảo rằng: Ở cái xứ này, quy định của
người ta, đã thành luật lệ là như thế đấy, tại ông quá quen với các trường ở Việt
Nam mà không chịu tìm hiểu nên đã bị hors-jeu (việt vị). Theo quy định ở
Angiêri thì thầy đi dạy phải tự mang theo phấn và bàn chải lau bảng, nhận ở văn
phòng khoa, thầy phải đến và vào lớp trước tiên, sinh viên vào sau, sinh viên
chào thầy hoặc không chào cũng được, tự tìm chỗ ngồi. Đúng giờ thầy bắt đầu,
khi kết thúc thầy là người ra sau cùng. Quy định của người ta khác với mình.
Thôi thì «Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục» chứ không thể bảo người ta ngược
đời được, không thể dùng quy định của mình để áp đặt cho người khác.
Đối với SV, nghe giảng lý thuyết là quyền lợi, đánh giá bằng
bài thi với thang điểm từ 0 đến 20. Làm bài tập và bài thực hành là bắt buộc,
ngoài điểm đánh giá về khả năng, còn có điểm đánh giá về chuyên cần với thang
điểm từ 0 đến 10 (gần đây ở VN có cho điểm này nhưng chủ yếu là đối với việc học
lý thuyết). Cuối học kỳ tôi mang bảng đánh giá chuyên cần nộp cho giáo vụ. Vừa
xem xong vị trợ lý bảo tôi: «Chết, chết,
thầy cho điểm thế này thì gay go, khó tránh khỏi phản ứng mạnh của SV. Từ trước
đến nay mọi thầy giáo cho điểm chuyên cần từ 5 đến 8, thế mà thầy lại cho từ 2
đến 10». Tôi trả lời là đã đánh giá theo đúng quy chế, tôi có đủ chứng cớ vì
tôi theo dõi khá sát tình hình làm bài tập và đồ án của mỗi SV, tôi chịu hoàn
toàn trách nhiệm nếu có SV nào phản đối. Đúng là ban đầu bảng điểm do tôi đánh
giá có gây một cú sốc cho những ai xem thấy (kể cả SV và thầy giáo), vì người
ta đã quen với bảng điểm từ 5 đến 8. Thế nhưng sau đó không có ai thắc mắc và
khiếu nại gì, nhiều người công nhận sự đánh giá của tôi mới tương đối chính
xác.
Một hôm, theo đúng thời khóa biểu tôi lên lớp. Bình thường
tôi đến trước 5 phút, vào lớp, ngồi yên vị thì SV lục tục vào. Hôm nay, đợi đến
15 phút chẳng thấy SV nào, hỏi ra thì SV đang bãi khóa để phản đối một lệnh nào
đó của Hiệu trưởng. Bãi khóa là một trong các quyền tự do của sinh viên. Theo
quy định thì khi SV bãi khóa thầy giáo vẫn không được bỏ về, phải ở lại lớp cho
đến hết giờ. Tôi không những ở lại lớp mà còn viết lên bảng các đề mục của bài
học và nói một vài câu. Sau này tôi nói đùa là có vài lần vẫn giảng bài khi
trong lớp không có một SV nào cả.
Vào đầu học kỳ 2 năm thứ 2 làm chuyên gia, tôi lên lớp buổi
đầu theo thời khóa biểu để dạy tiếp lớp đã học trong kỳ 1. Chỉ có vài SV. Tôi hỏi:
Các cậu lại bãi khóa à? Trả lời: Không, chúng em không bãi khóa. Mấy đứa em được
các bạn nhờ lên đây ngồi nói chuyện với thầy cho vui kẻo sợ thầy buồn, các bạn
nói rằng trong thời gian vừa rồi, liên hệ, trao đổi với nhiều bạn bè học ở các
trường khác mới biết chúng em đã học được khá nhiều so với các nơi, thế thì xin
thầy cứ từ từ.
Làm bài thi. Sau khi SV kết thúc làm và nộp bài thi, thầy
giáo có nghĩa vụ công bố công khai đáp án và mức điểm cho mỗi câu. Việc đó nhằm
giúp SV tự đánh giá bài làm, mỗi người có thể tính được số điểm có thể đạt. Sau
khi thầy công bố điểm SV có quyền khiếu nại nếu thấy điểm tự chấm và điểm thầy
cho chênh nhau đáng kể. SV có quyền yêu cầu thầy cho xem lại bài làm của mình
và điểm của thầy ghi cho mỗi câu.
Trong 3 học kỳ đầu tiên tôi đã chấm bài rất cẩn thận, không
có một khiếu nại nào. Đến học kỳ thứ 4 thì xảy ra sự cố. Cùng một lúc có gần 10
SV đến yêu cầu tôi cho xem lại bài thi. Đúng ra chỉ được tiếp mỗi lần không quá
3 SV, để trong khi SV xem lại bài thì thầy có thể bao quát được. Nhưng tôi đã
chủ quan, phát bài lần lượt cho tất cả . Khi trả lại, hầu hết không có ý kiến
gì, chỉ có một SV khiếu nại là tôi dã bỏ sót một ý, không chấm đến, bị mất 1 điểm.
Tôi ghi nhận và hứa xem lại, hôm sau trả lời. Khi xem lại cẩn thận và đối chiếu
với nhiều bài thi của cùng SV ấy ở các môn khác tôi nghi ngờ câu không được chấm
là do SV mới viết thêm vào (lợi dụng sự nhốn nháo đông người). Hôm sau, tiếp SV
tôi nói: Tôi công nhận, nếu chấm thêm ý anh phát hiện thì bài thi được thêm 1
điểm. Nhưng tôi nghi ngờ đó là ý anh mới viết thêm vào. Tôi chỉ nghi ngờ mà
không có chứng cứ. Điều này chỉ có 2 người biết là anh và Thượng để. Vậy tôi đề
nghị kéo dài thêm 1 ngày để anh và tôi cùng cầu nguyện Thượng đế. Nếu anh khẳng
định mình không viết thêm thì xin Thượng đế chứng giám, ngày mai anh gặp lại,
tôi sẽ làm thủ tục chữa điểm. Nếu anh định lừa dối thì may ra có thể lừa được
người thường chứ không thể giấu được Thượng đế. Anh hãy cầu nguyện Ngài, xin
tha tội và không cần gặp lại tôi. Kết quả anh ta không đến gặp lại.
Danh hiệu chuyên gia giáo dục là do chúng ta đặt ra để gọi
cho oai chứ bạn gọi chúng tôi là «người cộng tác» (tiếng Pháp là Coopérant). Tại
nhiều trường đại học ở Angiêri, ngoài các coopérant người Việt Nam còn có người
từ nhiều nước khác như Pháp, Nga, Rumani, Ba Lan, Bờ biển Ngà…, trong đó có cả
người Việt quốc tịch Pháp. Tất cả chỉ là những người đi làm thuê theo hợp đồng.
Sinh viên nói riêng và người dân Angiêri nói chung đánh giá các coopérant Việt
Nam có hai cái nhất trong số các coóperant, và đó cũng là các thắc mắc, khó hiểu.
Một là đa số họ giỏi hơn coopérant các nước khác. Hai là toàn bộ họ tằn tiện,
chịu khổ cực, có cuộc sống vật chất không hề xứng đáng với vai trò thầy giáo đại
học và với số lương được trả. Mãi về sau, khi đã tìm hiểu được nguyên nhân thì
người Angiêri mới thông cảm và yêu mến hơn các coopérant Việt nam. Nguyên nhân
giỏi hơn vì phần lớn họ là những chuyên gia hàng đầu của Việt Nam, còn
coopérant các nước khác chỉ là những thầy giáo bình thường, chưa được xếp hạng
cao tại nước của họ. Ngay như tại trường mà tôi đang dạy, là một trường nhỏ, mới
thành lập tại một thành phố nhỏ (INES de Chlep) mà đã có các thầy có tên tuổi,
các chuyên gia hàng đầu của VN như Lê Văn Thưởng (cầu), Dương Học Hải (đường),
Đào Hữu Vinh (hóa học), Ngô Phú An (vật lý), Nguyễn Đình Cống (kết cấu bêtông),
Nguyễn Lê Ninh (động lực học), Lê Đức Thắng (cơ đất), Nguyễn Phúc Trí (chuyên
gia TK CĐ). Đúng là một nghịch lý khi nhà nước đưa các trí thức hàng đầu đi làm
thuê cho những quốc gia vừa độc lập ở Châu Phi. Nguyên nhân họ phải sống tằn tiện,
chịu cực khổ là vì họ phải làm nghĩa vụ đối với nhà nước vừa ra khỏi chiến
tranh, phần lớn lương phải nộp cho nhà nước để góp phần trả nợ, họ chỉ được cấp
một số tiền đủ để duy trì cuộc sống bình thường và khi kết thúc mới được trả
thêm 100 đô la cho mỗi tháng làm việc.
Trong lịch sử phát triển Đại học của Việt Nam chúng ta có
ghi nhận sự đóng góp của các chuyên gia Liên xô. Không biết trong lịch sử phát
triển nhiều trường đại học của Angiêri có câu nào nhắc đến các coopérant của Việt
Nam hay không.
(Còn tiếp)
N.Đ.C.
Nguồn: http://boxitvn.blogspot.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét