Tạp ghi Huy Phương
Chúng ta cũng nên biết rằng, Hội Nhà Văn Việt Nam lâu nay vẫn được
xem là công cụ của đảng, và ông Hữu Thỉnh đã được đảng sắp xếp cho làm
chủ tịch trong thời gian dài 15 năm (ba nhiệm kỳ). Trong tình trạng
chính hội này sắp tắt thở bị cắt ngân khoản xuống một nửa, và ngân khoản
này hầu hết dùng để in báo phát không (free) cho con số hội viên không
dưới 1,000 người, và ngay trong tình trạng khó khăn như vậy, hội lại dám
đề xuất một hội nghị có tầm vóc, tốn kém trong một thời gian quá ngắn,
hẳn là một việc làm cấp bách do cấp trên giao phó là khẩn trương “hòa
hợp dân tộc.”
Trước
hết, trên danh nghĩa, ông Hữu Thỉnh đã dùng chữ “nhà văn phục vụ chế độ
cũ” để nói đến những người như chúng tôi, hầu phân biệt với những nhà
văn phục vụ chế độ của đảng ngày nay.
Thật ra, theo định nghĩa chung của nhà văn, nhà văn không phải là thứ
“viết thuê vẽ mướn,” đồng nghĩa với “chém thuê giết mướn” trong cung
cách văn nô, bồi bút theo lề lối của những nhà văn, nhà thơ sống trong
chế độ Cộng Sản lâu nay, không “phục vụ” thì chỉ có cách chết đói hay đi
tù như những nhà văn thuộc thế hệ Nhân Văn Giai Phẩm 1955. Không phục
vụ chế độ như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm có nghĩa là “tình báo nước ngoài
được cài cắm và làm gián điệp cho ngoại quốc” nhằm “phủ nhận sự lãnh đạo
của đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo chính
trị và nhà nước duy nhất của đảng Lao Động Việt Nam.” (lời lẽ kết án
của đảng đối với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm).
Nhà văn ở miền Nam trước đây không có ai nhận sự lãnh đạo chính trị
của đảng nào hay chính phủ nào trong lĩnh vực văn hóa cả. Thiên chức của
một nhà văn không phải sinh ra để phục vụ chế độ hầu để kiếm chén cơm,
manh áo, chút tem phiếu hay một chức vụ của đảng ban cho. Ở miền Bắc,
người ta đào tạo ta những nhà văn như thế, nhưng tận tụy phục vụ cho
đảng, cuối cùng cũng chỉ nhận được sự xem thường, khinh miệt.
Có lần, Hội Nhà Văn Cộng Hòa Dân Chủ Đức, qua Hội Nhà Văn Việt Nam,
gửi tặng cho các nhà văn Việt Nam mấy cái xe đạp Diamant. Thời đó, món
quà này là một cả một gia tài lớn. Hội nhà văn làm danh sách, chia xe
đạp cho một số nhà văn, trong đó có nhà văn Nguyên Hồng. Từ Bắc Giang,
Nguyên Hồng lặn lội về Hà Nội nhận xe. Nhưng nhà văn phục vụ chế độ khốn
khổ này, cuối cùng chỉ được chụp hình với cái xe, để người ta gửi báo
cáo về Đông Đức, còn cái xe thì hội giữ lại để dâng cho giới lãnh đạo.
Ông Nguyên Hồng cho rằng Hội Nhà Văn Việt Nam đối xử với hội viên của họ
còn thua bọn đầu nậu, du thủ du thực trong Bỉ Vỏ (tác phẩm của Nguyên
Hồng trước 1945).
Còn thời nay, Nguyễn Hữu Thỉnh, suốt 15 năm là một nhân vật như thế nào?
Ông Hữu Thỉnh sinh năm 1942, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao
dịch cho các đồn lính Pháp, đến 12 tuổi mới được đi học. Nhập ngũ, làm
lính Trung Đoàn 202, tham gia các công việc như chăn bò, học lái xe
tăng, Sau 1975, ông học sơ cấp thú y. Đặt để một ông tốt nghiệp sơ cấp
thú y, trưởng ban chăn nuôi, biên tập của tạp chí Thú Y, một ông Thừa
Cung thời nay, làm hội trưởng Hội Nhà Văn Việt Nam, thật là đúng quy
cách, đường lối của đảng đối với văn nghệ sĩ.
Hổ thẹn vì mang danh hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, ngày 11 Tháng
Năm, 2015, 20 nhà văn, nhà thơ ký tên vào đơn tuyên bố từ bỏ hội. Đó là
Nguyên Ngọc, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Đình
Trọng, Võ Thị Hảo, Bùi Minh Quốc, Đặng Văn Sinh, Hoàng Minh Tường, Lê
Hiền Phương, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Quang Thân, Thùy Linh, Vũ Thế Khôi,
Ý Nhi, Dư Thị Hoàn, Trịnh Hoài Giang, Dạ Ngân, Nguyễn Duy, và Trần Kỳ
Trung. Trong số 20 người, có bốn người cũng đồng thời tuyên bố rời bỏ cả
Văn Đoàn Độc Lập, đó là Nguyễn Quang Lập, Dạ Ngân, Nguyễn Duy, và Trần
Kỳ Trung.
Cái hội nhà văn do ông Hữu Thỉnh lãnh đạo là cái hội đã đem râu cụ
Phan Thanh Giản cắm vào cằm ông Nguyễn Khuyến, lấy khăn vấn của ông Chu
Văn An đội cho ông Cao Bá Quát, và cho rằng Hàn Mạc Tử và Yến Lan là
một!
Nói về “hòa giải dân tộc,” thì những người có đầu óc suy nghĩ ở hải
ngoại hẳn đã phải dị ứng nổi gai ốc, mỗi lần nghe đến mấy chữ này, vì 42
năm với những thù hận, kiêu ngạo, kỳ thị, ngu dốt của những người thắng
trận, không còn gì để hòa hợp, hòa giải nữa! Ở trong nước, với người đã
chết các ông cũng đào mồ cuốc mả, với người sống thì đàn áp tù đày.
Liệu tổ chức được một thứ hội nghị “hòa giải dân tộc” như thế, số tiền
hải ngoại gửi về có tăng lên chăng?
Nhưng quý ông trong nước cũng đừng quá bận tâm lo lắng. Không phải
đến bây giờ hải ngoại chưa chịu hòa hợp hòa giải với mấy ông. Cách đây
mấy năm, nhiều nghệ sĩ hải ngoại cũng về với hy vọng làm lại chuyện này,
nhưng đi ra rồi lại đi vào, đi ngược về xuôi, không còn biết đâu mà
lần!
Gần đây một số nhà văn, nhà thơ của miền Nam thời cũ (tôi không dùng
chữ phục vụ chế độ cũ) mặc dầu họ là những cựu quân nhân, viên chức,
thậm chí đã bị các ông cầm tù, đày ải trong các trại tập trung, cũng đã
xin về hòa hợp hòa giải bằng cách “giao lưu” với những nhà văn trong
nước, xuất bản, in sách, giới thiệu, ra mắt tác phẩm. Họ đình đám, ca
tụng hòa giải với nhau, còn đem hình ảnh ra quảng bá, khoe khoang trên
báo chí hải ngoại nữa, thì cần gì các ông phải nhọc lòng, tốn ngân khoản
để tổ chức hội nghị này, hội nghị nọ cho nhọc lòng, thêm đề tài cho
thiên hạ chửi nữa..
Cũng có thể rồi đây, các ông sẽ chiêu dụ được một đám lòng tong, cá
chốt ở đây về dự tham dự hội nghị “hòa hợp dân tộc” nhân dịp giỗ tổ Hùng
Vương. Cũng còn nhiều anh lúc ra đi, trốn chui trốn nhủi, bây giờ về,
muốn được xe công an hộ tống có còi hụ dẫn đường, và muốn nhảy cẫng, leo
lên sân khấu cùng vỗ tay hát bài hát “Như có Bác trong ngày đại thắng”
của Phạm Tuyên, đứa con bất hiếu!
Tôi không nghĩ là ông Hữu Thỉnh “hoang tưởng” như một nhà văn nhận
định trong cuộc phỏng vấn của Văn Hóa, có thể Cộng Sản nghĩ đúng: mẻ
lưới nào quăng ra mà không có cá! Không có cá thì cũng có cua, còng, rơm
rác! Rồi căn cứ vào đó, theo thói quen được chăn dắt, báo chí truyền
hình trong nước lại ca tụng: “hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” đã
thành công rực rỡ!
Thôi, “bỏ đi Tám!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét