Dịch giả: Song Phan
Sự thất bại của sắc lệnh của Tổng thống Trump liên quan đến
việc cấm người đến Mỹ, những người từ các nước có người Hồi giáo chiếm đa số,
có chọn lựa, đã thu hút sự chú ý của công luận trong nhiều ngày, mặc dù nó chỉ
là một trong nhiều hành động cấu thành 10 ngày khởi đầu vô tổ chức nhất và chất
đầy xung đột nhất của bất kỳ chính quyền Mỹ nào trong ký ức. Sắc lệnh này đáng
nhận những lời chỉ trích mạnh mẽ trên nhiều căn cứ, nhưng điều quan trọng cần
chú ý là, làm thế nào mà một văn bản soạn thảo tệ hại chưa từng có như vậy lại
đặt dưới bút của tổng thống.
Được biết nó là sản phẩm của một nhóm thân cận nhỏ các cố vấn
chính trị xung quanh Trump, với thông tin đầu vào hay nhận định của bất kỳ bộ
phận khác của chính phủ, quá ít một cách đáng kinh ngạc, kể cả của những bộ phận
chịu trách nhiệm về việc thực hiện lệnh này. Không chỉ các bộ phận có trách nhiệm
của bộ máy hành chính bị loại ra; các thành viên nội các vừa bổ nhiệm của chính
Trump cũng thế. Bộ trưởng An ninh Nội địa, ông John Kelly mà Bộ của ông này
liên quan trực tiếp nhất trong việc thực hiện, chỉ được tiếp nhận nửa chừng buổi
thông báo tóm tắt đầu tiên của ông về chính sách mới khi tổng thống ký lệnh
này.
Sự thiếu vắng về một quy trình có thứ lớp trong hoạch định
chính sách như vậy—một thiếu vắng đặc trưng không chỉ cho lệnh về đi lại, mà
còn cho nhiều hành động ban đầu khác của Trump—mâu thuẫn rõ rệt với điều mà từ
lâu đã là thủ tục thông thường dẫn đến các quyết định của tổng thống liên quan
đến các sáng kiến lớn hoặc các chuyển hướng trong chính sách an ninh và ngoại
giao. Hầu hết các quyết định chính sách lớn như vậy trong các chính quyền trước
đây, chỉ với một ít thay đổi nhỏ, đều được dẫn trước bằng một quá trình nhận định
và thảo luận một thời gian dài, ở nhiều cấp, trong tất cả các bộ và các cơ quan
có trách nhiệm liên quan tới chủ đề đang bàn.Việc nhận định đó chủ yếu diễn ra
trong các ủy ban liên ngành do thành viên của Hội đồng an ninh Quốc gia (NSC)
chủ trì.
Có nhiều lý do chính đáng và quan trọng cho một quy trình
như vậy. Những thực tế có liên quan phải đối mặt, bao gồm cả thực tế chính trị
và ngoại giao ở nước ngoài, phải được các bộ phận của chính phủ có chức năng đối
phó với những thực tế đó hàng ngày hoặc có trách nhiệm theo dõi chúng, nhận ra
và nhấn mạnh ở mức tốt nhất. Tất cả các lợi ích và các mục tiêu có liên quan của
Mỹ có thể bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi trong chính sách cần phải được xem xét.
Một lần nữa, việc nhận thông tin cần thiết từ nhiều Bộ khác nhau và các cơ quan
có trách nhiệm cụ thể trong việc thúc đẩy các lợi ích khác nhau của Mỹ, là cách
tốt nhất, để bảo đảm rằng, mọi quyền lợi của Mỹ đều được xét tới. Sau đó, còn
phải xét tới những hậu quả tiềm năng không mong muốn cũng như các vấn đề về diễn
giải và thực hiện có thể gây ra nhiều thay đổi lớn tệ hại trong chính sách. Việc
có nhiều cái nhìn khác nhau, với những quan điểm hành chính khác nhau là một phần
của việc xét duyệt sẽ làm giảm đi rủi ro bỏ sót những hậu quả và những vấn đề
như vậy.
Lệnh về đi lại và di trú khiếm khuyết tất cả những căn cứ đó
một cách rõ ràng và tệ hại. Các lệnh khác từ Nhà Trắng của Trump có thể không
có hậu quả phá rối ngay lập tức bằng [lệnh đi lại và di trú], nhưng do thiếu một
quy trình chính sách đàng hoàng, nên cũng đều khiếm khuyết theo cùng một cách,
với những vấn đề bị bỏ sót của chúng, có khả năng sẽ nổi lên sau này.
Một trong những chỉ thị ban đầu khác của Trump, liên quan đến
cơ chế của NSC (Hội đồng An ninh Quốc gia), cũng phản ánh xu hướng giữ việc vận
hành theo cùng với cách đã tạo ra lệnh cấm đi lại. Cố vấn chính trị và nhà tư
tưởng chính của Trump, Stephen Bannon, được biết là người đã đóng vai trò lớn
nhất trong việc dự thảo lệnh cấm đi lại, đã được trao một ghế thường trực trong
uỷ ban hoạch định chính sách chính, mà ngay cả chủ tịch các tham mưu trưởng
liên quân và giám đốc tình báo quốc gia đều bị từ chối ghế đó. Cách sắp xếp như
vậy chắc chắn không nhằm vào việc hoàn thành các mục đích chính đáng và quan trọng
trong xét duyệt chính sách như đã đề cập ở trên
Bannon tự hào nói với một người phỏng vấn vài năm trước đây,
“Tôi là một người Leninist“, qua việc giải thích rằng “Lenin muốn tiêu diệt nhà
nước, và đó cũng là mục tiêu của tôi“. Chúng ta có thể đã thấy xu hướng
Leninist trong Nhà Trắng của Bannon – Trump, bao gồm những thứ như việc xử lý sắc
lệnh chống Hồi giáo. Lãnh đạo Bolshevik thực hiện cái được gọi là tập trung dân
chủ, với phần “tập trung” là kiểm soát cực kỳ chặt chẽ từ băng nhóm chóp bu và
sự tuân phục mù quáng từ tất cả mọi người khác. Những điểm tương đồng khác giữa
Petrograd 1917 và Washington năm 2017 cũng có thể thấy rõ.
Có lẽ chúng ta nên tập trung chủ yếu vào lời lẽ truyền tải ý
thức hệ Lenin của chính Bannon. Không, ông ta sẽ không thể tiêu diệt nhà nước
theo nghĩa đen và đưa Hoa Kỳ vào tình trạng vô chính phủ. Tuy nhiên, trên thực
tế ông đã bắt đầu tiêu diệt nó về mặt xây dựng chính sách, với các quyết định
được đưa ra từ băng nhóm nhỏ tại trung tâm. Đối với phần còn lại của nhà nước,
đặc biệt là bộ phận bao gồm các quan chức có kinh nghiệm và am tường công việc
liên quan thì câu trả lời sẽ là, “làm theo hoặc là ra đi”.
Trường hợp đã xảy ra một lần trong hoạch định chính sách đối
ngoại của Mỹ kể từ Thế chiến II, có liên quan đến một sự chuyển hướng lớn, đã bị
chạy ra khỏi nhóm nhỏ của Nhà Trắng và nằm ngoài cơ chế xây dựng chính sách
bình thường, nhưng thành công khi nhìn trở lại, là việc Nixon và Kissinger mở cửa
cho Trung Quốc trong những năm đầu thập niên 1970. Khi nhìn vào nhân sự ở các vị
trí tương ứng trong chính quyền hiện tại chúng ta thấy rõ ngay lập tức rằng
kinh nghiệm này không thể lấy làm khuôn mẫu được. Ông Bannon không là Henry
Kissinger. Ông Flynn cũng thế. (Và ông Trump không là Nixon, ít nhất là về sự
nhạy bén trong đối ngoại). Ngay cả chính ông Kissinger sau này cũng nói rằng
phương pháp ông điều hành chính sách đối ngoại và chơi trò hành chánh là dị thường
và phụ thuộc vào các kỹ năng khác thường của chính ông đến mức mà không ai khác
có thể cố gắng điều hành chính sách đối ngoại theo cùng cách đó.
Có một quyết định lớn khác trong thời gian gần đây không
theo quy trình chính sách và cũng không dành cơ hội cho các bộ cùng bộ máy hành
chánh có liên quan, cân nhắc. Trong vụ này, chẳng hề có bất kỳ cuộc họp tại
Phòng Tình hình (Situation Room) hay bất kỳ tài liệu nghiên cứu về các chọn lựa
nào, xem xét liệu quyết định được đưa ra có là một ý tưởng tốt hay không. Đó là
quyết định phát động cuộc chiến tranh Iraq năm 2003. Thứ trưởng ngoại giao lúc
đó, Richard Armitage, sau đó nhận xét, “Chẳng hề có bất kỳ quy trình chính sách
nào để phá vỡ, bởi bà Condi [Rice] hay bất cứ ai khác. Chẳng hề có một quy
trình nào ngay từ đầu. Bush không muốn một quy trình nàp, vì bất kỳ lý do gì”.
Và tất cả chúng ta đều biết cái quyết định đó có kết cục như
thế nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét