Mười hai năm trước, nhà văn Doãn Quốc Sỹ gửi cho nhật báo
Người Việt tấm thiệp viết: “Nhân dịp đầu Xuân Ất Dậu, xin gửi tới quý văn hữu
cùng quý quyến lời chúc thân tâm an lạc, vạn sự cát tường! Thân quý.” Cùng với
lời chúc Tết, Doãn Quốc Sỹ còn kể ông mới “du ngoạn công viên Grand Canyon bên
tiểu bang Arizona. Xe dừng trên chiều cao xa lộ, nhìn xuống toàn cảnh Grand
Canyon, rồi nhìn xuống ngọn nguồn con sông Colorado nhất định xuyên thẳng hai
bên vách núi chứ không chịu chảy quanh vòng vo – thật tuyệt vời.”
Doãn Quốc Sỹ, tác giả “Chiếc chiếu hoa cạp điều” được giáo dục
theo truyền thống dân tộc, cho nên nhìn dòng sông Colorado dưới thung lũng
Grand Canyon ông lại thấy đó như một biểu tượng cho thái độ chính trực, không sợ
hãi, không khuất phục, không luồn cúi và không sa ngã. Trong truyện ngắn Chiếc
chiếu hoa cạp điều ông kể chuyện một phụ nữ Việt Nam suốt đời ân hận chỉ vì đã
có lúc làm một việc trái đạo đức, dù một việc rất nhỏ, bà phạm lỗi vì chỉ lo
cho gia đình nheo nhóc trong lúc đang “chạy loạn.” Chính Doãn Quốc Sỹ đã thể hiện
lối sống đại trượng phu trong cuộc đời mình, cho con cháu chúng ta, ở trong nước
Việt Nam và ở bên ngoài. Một ngày nào đó, có những bà mẹ Việt Nam sẽ kể cho con
nhỏ nghe: Ngày xưa có ông Doãn Quốc Sỹ, sinh vào thời loạn lạc nhiễu nhương …,
ông kể chuyện “Con Mèo Mà Trèo Cây Cau” như thế này…
Dân Việt mình vẫn thờ cúng tổ tiên, mỗi dịp Tết lại là dịp kể
chuyện ông bà cho con cháu nghe. Chúng ta thường hãnh diện về lịch sử tổ tiên
chung của giống nòi. Những Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình
Chiểu, Ông, bà Bùi Hữu Nghĩa, đều để lại những tấm gương cho người Việt ngày
nay hãnh diện. Nhân lúc đón Xuân Đinh Dậu, nhớ lại tấm thiệp Xuân của nhà …,”
chúng ta có thể hãnh diện về nhân cách của một nhà văn, bị tù đầy chỉ vì sống
cương trực, giữ tiết tháo “uy vũ bất năng khuất” của một đại trượng phu, trong
những năm dài ngồi tù cải tạo mà thân tâm ông vẫn thản nhiên an lạc.
Chúng ta có thể hãnh diện về tổ tiên người Việt. Một dân tộc
còn giữ được nền độc lập sau một ngàn năm bị người Hán đô hộ, dân tộc đó rất
đáng hãnh diện. Nhìn lại bao sắc dân khác ở phía bắc biên giới Hoa-Việt đã hoàn
toàn biến mất, nay họ tự nhận là người Hán. Nền văn minh “Hoa Hạ” có sức đồng
hóa mạnh hơn cả văn minh Hy Lạp, La Mã. Kể từ đời Tần Thủy Hoàng (2 thế kỷ trước
công nguyên) đến nay, đế quốc Trung Hoa đã bành trướng lớn lên gấp bốn lần.
Nhưng chúng ta không chỉ hãnh diện về những Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Bình Trọng,
hay các danh nhân trong lịch sử, mà còn có thể hãnh diện về chính ông bà, cha mẹ,
những người sống cùng thời với mình, những người cùng làng, cùng xóm đáng nêu
gương. Khi nào người Việt Nam còn biết hãnh diện về tổ tiên mình, về đồng bào
mình, thì nước Việt Nam không sợ mất.
Có những người Việt hay sợ nước lớn quá, nói đến Trung Quốc
là sợ, vì nước họ mạnh gấp trăm lần nước mình. Nhưng trong lịch sử đã có nhiều
“Ông Trạng” làm cho vua quan nước Tầu phải phải kính phục; những“Ông Trạng” có
thật như Mạc Đĩnh Chi, có nhân vật tưởng tượng như Trạng Quỳnh. Doãn Quốc Sỹ có
kể một chuyện Trạng Quỳnh Đi Sứ.
Một người từng công khai tuyên bố hãnh diện làm dân Việt Nam
là Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) thời vua Quang Trung (Cũng đọc là Ngô Thời Nhiệm).
Trong một chuyến đi sứ, đi qua tỉnh Quảng Tây, Ngô Thì Nhậm viết bài thơ “Hoãn
Nhĩ Ngâm” (Mỉm cười mà ngâm thơ) để chế nhạo những thành kiến sai lầm trong
sách sử của người Trung Hoa. Nhưng lời phê bình nặng nề nhất ông dành cho thói
phân biệt, khoe dân Trung Hoa (gọi là Hoa Hạ) mới có văn minh, còn các sắc dân
khác đều mọi rợ, man di. Ông viết: “Di, Hạ, âm dương phân – Thử ngôn thái thiển
lậu!” Nghĩa là: Phân biệt Hoa Hạ khác Man Di như Dương khác với Âm; Nói như thế
là quá nông cạn!
Để thuyết phục người Trung Hoa về trình độ văn minh của dân
phương Nam, Ngô Thì Nhậm viện dẫn Chu Hy đời Tống, một triết gia có uy tín
trong lịch sử và văn hóa Trung Quốc. Chu Hy đã nhận xét, “Thịnh xưng tây nam
phiên – Văn tự đa cao thủ – Tất hữu khai kỳ tiên – Bất độc quốc trung hữu.”
(Đáng khen các dân tộc miền Tây Nam – Có nhiều người giỏi chữ nghĩa – Tất nhiên
họ đã khai hóa từ lâu – Đâu phải chỉ Trung Quốc mới có tiến bộ). Sau khi dẫn những
lời của Chu Hy, ngay câu sau, Ngô Thì Nhậm viết: Khi về nước, ta sẽ bảo với bạn
hữu rằng: “May mắn thay, chúng ta sinh ở Nước Nam!” (Hạnh tai sinh Nam bang)!
Bây giờ có bao nhiêu người Việt đang nghĩ như Ngô Thì Nhậm?
Nếu ai không nghĩ làm dân Việt là may mắn, thì ít nhất người đó cũng phải ước
mong con cháu sau này sẽ có lúc cảm thấy được làm dân Việt là may mắn.
Chúng ta phải coi đây là một bổn phận. Bổn phận trả lại cho
con cháu niềm hãnh diện mà tổ tiên đã vẫn nói với nhau: Hạnh tai, sinh Nam
bang! Đêm giao thừa năm nay, sẽ khấn khứa ông bà, xin nguyện sẽ cố gắng giúp
các thế hệ sắp tới có thể cao hứng thốt lên như Ngô Thì Nhậm: May mắn thay,
sinh làm người Việt Nam!
Chúng ta đón mùa Xuân về với niềm tin tưởng là ngày đó không
xa. Phục hồi một nếp sống thuần hậu, ngay thẳng, chánh trực; sống lại các giá
trị đạo lý của Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu; Phan Châu Trinh; chúng ta sẽ trở
về, trong ngôi nhà cũ của tổ tiên đứng trước bàn thờ mà lòng không hổ thẹn.
Ngày về sắp đến rồi. Cái gì tới chỗ cùng cực, sẽ phải thay đổi. Cả nước đang rạo
rực chờ biến chuyển. Cả dân tộc đang trở về nhà, lòng náo nức như một thi sĩ đi
tù sắp được về sau “Mười năm mặt sạm soi khe nước – Ta hóa thân thành vượn cổ
sơ.” Trong lòng thi sĩ vẫn tràn ngập niềm vui:
Tiếng biển lời rừng nao nức giục
Ta về cho kịp độ xuân sang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét