Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

Đảng cộng sản Việt Nam, ngã ba đường lịch sử (phần tiếp theo)



FB Lang Anh


Chính sách dân tộc và chủ nghĩa bành trướng của Đảng cộng sản Trung Quốc hiện nay vừa là một nguy cơ sinh tồn nhưng cũng đồng thời là bình tiếp oxy hà hơi cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Điều này thoạt nghe có vẻ vô lý nhưng lại là sự thật.

Đất nước Trung Quốc quá lớn, quá đông dân và quá phức tạp. Trong nhiều thiên niên kỷ, người Trung Quốc tồn tại bằng các cuộc chiến tranh xâm lược nối tiếp nhau. Văn hoá của họ được xây dựng trên nền tảng của lối tư duy nô dịch. Vì thế hầu như khó có thể có cơ may nào cho Trung Quốc chuyển hoá sang một thể chế dân chủ trong hoà bình trong ít nhất 30 năm tới. Do đặc tính dân tộc và tính phức tạp của đất nước này, những người cộng sản ở Trung Quốc hiện nay đối diện với nguy cơ bị tàn sát hàng loạt nếu họ để mất dây cương. Riêng cá nhân tôi cho rằng nếu biến động xã hội xảy ra ở Trung Quốc, nó sẽ khiến đất nước này bị chia nhỏ làm nhiều phần. Đó sẽ là câu chuyện trong một tương lai xa. Còn hiện tại, với tư cách là một đại cường, Đảng cộng sản Trung Quốc có nhiều giải pháp để duy trì sự tồn tại của mình hơn là Việt Nam. Nguy cơ Trung Quốc tiến hành các cuộc chiến tranh quy mô nhỏ trong khoảng 10 năm tới là rất cao, và nó sẽ là một công cụ mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc vận dụng thường xuyên để đánh lạc hướng và xoa dịu các bất ổn chính trị trong nước. Có thể thấy rõ điều đó qua các phát ngôn ngày càng kiên quyết của Tập Cận Bình về các vùng lãnh thổ tranh chấp. Đó không phải là vấn đề quyền lợi quốc gia, nó giống một chiếc phao cứu sinh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong bối cảnh ngày một mất dần tính chính danh trước xu thế thời đại. Chế độ cộng sản ở Trung Quốc rồi sẽ kết thúc, nhưng nó sẽ không chết một mình trước khi gây ra những tổn thương sâu sắc cho phần còn lại của thế giới và cho chính người dân Trung Quốc. Thế giới cần ý thức rất rõ về điều này.

Là một nước có đường biên hàng ngàn km với Trung Quốc và có một quan hệ lịch sử phức tạp với dấu ấn nổi trội là chiến tranh, quan hệ giữa hai chế độ cầm quyền hiện nay ở Trung Quốc và Việt Nam rất phức tạp. Một mặt, họ luôn giống nhau, trước đây là vì ý thức hệ cộng sản cổ điển, giờ đây là sự tương đồng về mô hình cai trị tham nhũng độc tài. Điều đó khiến chế độ cộng sản tại TQ và Việt Nam luôn có nhu cầu tìm đến nhau như những đồng minh thiên nhiên trong bối cảnh thế giới coi họ là những tồn tại khuyết tật của lịch sử. Mặt khác, do là những đại diện cầm quyền tại hai quốc gia giáp giới với những lợi ích đối kháng nhau về lãnh thổ, khiến hai chế độ cầm quyền này không thể không có những va chạm đôi khi đẫm máu. Ở đây tôi muốn dừng lại một chút để nói về những cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam trong thế kỷ trước mà Đảng Cộng Sản vẫn luôn dựa vào đó để đề cao tính chính danh của mình. Chính điều này sẽ giải thích đầy đủ cho mối liên kết bất thường giữa chế độ cộng sản tại Việt Nam và Trung Quốc hiện nay.

Là người truyền bá các học thuyết cộng sản vào Việt Nam, nhưng ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ là một người cộng sản đúng nghĩa. Tất cả các trước tác ông ta để lại đều cho thấy khó có thể nói ông Hồ am hiểu sâu các tư tưởng của Marx và Engels. Tôi thậm chí tin rằng cả cuộc đời mình chưa bao giờ ông Hồ đọc hết bộ Tư Bản Luận. Trong hồi ức được thuật lại, chính ông Hồ thừa nhận rằng ông ta đến với chủ nghĩa cộng sản chỉ vì đọc được luận cương "Dân tộc và thuộc địa" của Lenin, trong đó có đề cập đến việc xây dựng một liên minh cộng sản để giải phóng giai cấp và giải phóng các nước thuộc địa. Chủ nghĩa yêu nước là thứ đã thôi thúc ông Hồ, cho đến khi ông ta tiếp cận các lý thuyết cộng sản. Việt Nam có một lịch sử lập quốc hơn 2000 năm, trải qua vô số cuộc chiến tranh chống xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước là một giá trị cốt lõi luôn hiện diện trong huyết quản người Việt. Sự tồn tại của lòng yêu nước vốn độc lập với các lý thuyết cộng sản. Những người lính đã chiến đấu ở miền Bắc và cả những người lính đã chiến đấu để bảo vệ miền Nam, tôi tin rằng họ đều được thôi thúc bởi lòng yêu nước, vốn được truyền đời qua nhiều thế hệ. Họ đứng ở hai phía khác nhau vì những giá trị quan khác nhau và do sự chi phối của những người cầm đầu. Cuộc chiến ấy miền Bắc đã thắng. Nguyên nhân đã được phân tích rất kỹ càng bởi giới sử gia đông tây, tôi sẽ không lặp lại. Nếu cần có một nhận xét về sự kiện thống nhất 30/04/1975, tôi có thể nói thế này: "Một xã hội văn minh hơn đã bị đè bẹp bởi một xã hội dã man hơn". Sức mạnh quân sự không phải lúc nào cũng đi kèm với trình độ văn minh, ví dụ cho điều đó trong lịch sử đã có rất nhiều. Ví dụ như cuộc xâm lược khắp Á Âu của đội quân du mục của Thành Cát Tư Hãn với những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật và văn minh tiên tiến hơn nhiều. Riêng với Việt Nam, 30 năm sau ngày 30/04/1975, đất nước quay lại với những nền tảng căn bản mà người Việt Nam đã đạt được ở miền Nam trước năm 1975, một sự tụt lùi sâu sắc của lịch sử.

Có 4 triệu người đã chết trong cuộc chiến giành độc lập và thống nhất ở Việt Nam. Hầu hết những người lính đã hy sinh ở Điện Biên Phủ, ở Khe Sanh, ở Nam Lào và ở những cung rừng hẻo lánh Trường Sơn đều không phải là đảng viên cộng sản. Họ chiến đấu thuần tuý vì lòng yêu nước. Thậm chí ngay cả những người được kết nạp Đảng tại mặt trận lúc đó, họ cũng chẳng dính dáng hay hiểu gì về các tư tưởng cộng sản. Những người lính ấy đã chiến đấu và chết vì một lý do duy nhất là lòng yêu nước. Chính ở đây là một sự nhập nhèm của những người cộng sản. Lòng yêu nước đã làm nên chiến thắng 30/04/1975 chứ không phải chủ nghĩa cộng sản. Và bản thân lòng yêu nước thì đã luôn hiện diện ở Việt Nam trước, trong và sau khi những lý thuyết cộng sản đến đất nước này. Tôi tin rằng dù có hay không những người cộng sản ở Việt Nam thì đất nước cũng vẫn cứ giành được độc lập bằng cách này hay cách khác, dù là theo lối chiến tranh hay hoà bình, vì người Việt sẽ luôn không ngừng đòi hỏi nền độc lập. Trên thực tế, hầu hết các nước thuộc địa trên thế giới sau này đều đạt được độc lập mà chỉ số ít phải dùng tới chiến tranh. Và vấn đề chính ở đây là những người cộng sản đã tìm cách đánh đồng chủ nghĩa cộng sản (vốn là một thứ ngoại lai) với chủ nghĩa yêu nước (là thứ luôn sẵn có), và quy toàn bộ công lao giải phóng đất nước cho chủ thuyết của họ.

Mượn sức mạnh của lòng yêu nước để đạt được quyền lực và thiết lập được chế độ cai trị, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam đánh cắp luôn chiến thắng ấy bằng cách ghi quyền cai trị của họ vào hiến pháp sau ngày thống nhất. Xương máu và tổn thất thuộc về toàn bộ người Việt Nam, nhưng thắng lợi thì chỉ thuộc về mình Đảng Cộng Sản. Trên thế giới hiện nay, có lẽ cũng chỉ có Việt Nam và Trung Quốc là ghi áp đặt quyền cai trị của một Đảng cầm quyền vào hiến pháp. Người dân Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập, đổi lại là một sự cai trị áp đặt của Đảng cộng sản. Hơn 40 năm qua, họ chẳng có cơ hội lựa chọn nào khác. Đây là một trong những bi kịch lịch sử cay đắng nhất của người Việt.

Tuy nhiên, chúng ta cần công bằng với lịch sử. Tôi tin rằng ông Hồ Chí Minh và những người cộng sản đời đầu đều là những người yêu nước. Chỉ có điều họ đã nhanh chóng đặt Đảng lên trên đất nước ngay khi giành được chiến thắng. Và di sản mà họ để lại đã gây tai họa cho lịch sử đất nước trong nhiều chục năm sau này.

Chế độ cầm quyền hiện nay kế thừa di sản của những người cộng sản đời đầu. Họ hiểu rất rõ là người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận bất cứ một chế độ cai trị nào làm tổn hại độc lập hay chủ quyền quốc gia. Và chính đây là lý do dẫn đến mối quan hệ rất phức tạp giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng sản Trung Quốc. Một mặt thì Đảng cộng sản Việt Nam luôn có lý do để xích gần Trung Quốc, khi họ là những thứ tồn tại bị thế giới coi là dị dạng, họ có nhu cầu xiết chặt tay nhau. Đó là lý do ông Nguyễn Văn Linh tìm cách bắt tay với TQ bằng mọi giá ở hội nghị Thành Đô, khi hàng loạt chế độ cộng sản trên thế giới sụp đổ. Mặt khác, chế độ Việt Nam không thể không đối đầu với Trung Quốc khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm. Đây chính là lý do mà chủ quyền Việt Nam cứ từng bước bị tổn thất bởi Trung Quốc trong hơn 30 năm qua, khi bản thân Đảng cầm quyền luôn bị giằng xé giữa việc xích gần kẻ xâm lược và sức ép bảo vệ chủ quyền đến từ phía người dân.

Chủ nghĩa bành trướng hiện là một cứu cánh để kéo dài thời gian cái trị của chế độ cộng sản Trung Quốc, nó khiến chế độ cộng sản Việt Nam đối mặt với nguy cơ lớn nếu để mất chủ quyền. Tuy nhiên cũng chính sức ép này hiện là một trong những công cụ tuyên truyền của chế độ Việt Nam, theo đó quyền cai trị của họ cần được giữ nguyên nếu không đất nước sẽ bất ổn và bị thôn tính. Tôi sẽ quay trở lại câu chuyện về luận điệu tuyên truyền này ở phần kế tiếp.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét