FB Lang Anh
Chính sách dân tộc và chủ nghĩa bành trướng của Đảng cộng sản
Trung Quốc hiện nay vừa là một nguy cơ sinh tồn nhưng cũng đồng thời là bình tiếp
oxy hà hơi cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Điều này thoạt nghe có vẻ vô lý nhưng lại
là sự thật.
Đất nước Trung Quốc quá lớn, quá đông dân và quá phức tạp.
Trong nhiều thiên niên kỷ, người Trung Quốc tồn tại bằng các cuộc chiến tranh
xâm lược nối tiếp nhau. Văn hoá của họ được xây dựng trên nền tảng của lối tư
duy nô dịch. Vì thế hầu như khó có thể có cơ may nào cho Trung Quốc chuyển hoá
sang một thể chế dân chủ trong hoà bình trong ít nhất 30 năm tới. Do đặc tính
dân tộc và tính phức tạp của đất nước này, những người cộng sản ở Trung Quốc hiện
nay đối diện với nguy cơ bị tàn sát hàng loạt nếu họ để mất dây cương. Riêng cá
nhân tôi cho rằng nếu biến động xã hội xảy ra ở Trung Quốc, nó sẽ khiến đất nước
này bị chia nhỏ làm nhiều phần. Đó sẽ là câu chuyện trong một tương lai xa. Còn
hiện tại, với tư cách là một đại cường, Đảng cộng sản Trung Quốc có nhiều giải
pháp để duy trì sự tồn tại của mình hơn là Việt Nam. Nguy cơ Trung Quốc tiến
hành các cuộc chiến tranh quy mô nhỏ trong khoảng 10 năm tới là rất cao, và nó
sẽ là một công cụ mà Đảng Cộng Sản Trung Quốc vận dụng thường xuyên để đánh lạc
hướng và xoa dịu các bất ổn chính trị trong nước. Có thể thấy rõ điều đó qua
các phát ngôn ngày càng kiên quyết của Tập Cận Bình về các vùng lãnh thổ tranh
chấp. Đó không phải là vấn đề quyền lợi quốc gia, nó giống một chiếc phao cứu
sinh của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong bối cảnh ngày một mất dần tính chính
danh trước xu thế thời đại. Chế độ cộng sản ở Trung Quốc rồi sẽ kết thúc, nhưng
nó sẽ không chết một mình trước khi gây ra những tổn thương sâu sắc cho phần
còn lại của thế giới và cho chính người dân Trung Quốc. Thế giới cần ý thức rất
rõ về điều này.
Là một nước có đường biên hàng ngàn km với Trung Quốc và có
một quan hệ lịch sử phức tạp với dấu ấn nổi trội là chiến tranh, quan hệ giữa
hai chế độ cầm quyền hiện nay ở Trung Quốc và Việt Nam rất phức tạp. Một mặt, họ
luôn giống nhau, trước đây là vì ý thức hệ cộng sản cổ điển, giờ đây là sự
tương đồng về mô hình cai trị tham nhũng độc tài. Điều đó khiến chế độ cộng sản
tại TQ và Việt Nam luôn có nhu cầu tìm đến nhau như những đồng minh thiên nhiên
trong bối cảnh thế giới coi họ là những tồn tại khuyết tật của lịch sử. Mặt
khác, do là những đại diện cầm quyền tại hai quốc gia giáp giới với những lợi
ích đối kháng nhau về lãnh thổ, khiến hai chế độ cầm quyền này không thể không
có những va chạm đôi khi đẫm máu. Ở đây tôi muốn dừng lại một chút để nói về những
cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam trong thế kỷ trước mà Đảng Cộng Sản
vẫn luôn dựa vào đó để đề cao tính chính danh của mình. Chính điều này sẽ giải
thích đầy đủ cho mối liên kết bất thường giữa chế độ cộng sản tại Việt Nam và
Trung Quốc hiện nay.
Là người truyền bá các học thuyết cộng sản vào Việt Nam, nhưng
ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ là một người cộng sản đúng nghĩa. Tất cả các trước
tác ông ta để lại đều cho thấy khó có thể nói ông Hồ am hiểu sâu các tư tưởng của
Marx và Engels. Tôi thậm chí tin rằng cả cuộc đời mình chưa bao giờ ông Hồ đọc
hết bộ Tư Bản Luận. Trong hồi ức được thuật lại, chính ông Hồ thừa nhận rằng
ông ta đến với chủ nghĩa cộng sản chỉ vì đọc được luận cương "Dân tộc và
thuộc địa" của Lenin, trong đó có đề cập đến việc xây dựng một liên minh cộng
sản để giải phóng giai cấp và giải phóng các nước thuộc địa. Chủ nghĩa yêu nước
là thứ đã thôi thúc ông Hồ, cho đến khi ông ta tiếp cận các lý thuyết cộng sản.
Việt Nam có một lịch sử lập quốc hơn 2000 năm, trải qua vô số cuộc chiến tranh
chống xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước là một giá trị cốt lõi luôn hiện diện trong
huyết quản người Việt. Sự tồn tại của lòng yêu nước vốn độc lập với các lý thuyết
cộng sản. Những người lính đã chiến đấu ở miền Bắc và cả những người lính đã
chiến đấu để bảo vệ miền Nam, tôi tin rằng họ đều được thôi thúc bởi lòng yêu
nước, vốn được truyền đời qua nhiều thế hệ. Họ đứng ở hai phía khác nhau vì những
giá trị quan khác nhau và do sự chi phối của những người cầm đầu. Cuộc chiến ấy
miền Bắc đã thắng. Nguyên nhân đã được phân tích rất kỹ càng bởi giới sử gia
đông tây, tôi sẽ không lặp lại. Nếu cần có một nhận xét về sự kiện thống nhất
30/04/1975, tôi có thể nói thế này: "Một xã hội văn minh hơn đã bị đè bẹp
bởi một xã hội dã man hơn". Sức mạnh quân sự không phải lúc nào cũng đi
kèm với trình độ văn minh, ví dụ cho điều đó trong lịch sử đã có rất nhiều. Ví
dụ như cuộc xâm lược khắp Á Âu của đội quân du mục của Thành Cát Tư Hãn với những
quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật và văn minh tiên tiến hơn nhiều. Riêng với
Việt Nam, 30 năm sau ngày 30/04/1975, đất nước quay lại với những nền tảng căn
bản mà người Việt Nam đã đạt được ở miền Nam trước năm 1975, một sự tụt lùi sâu
sắc của lịch sử.
Có 4 triệu người đã chết trong cuộc chiến giành độc lập và
thống nhất ở Việt Nam. Hầu hết những người lính đã hy sinh ở Điện Biên Phủ, ở
Khe Sanh, ở Nam Lào và ở những cung rừng hẻo lánh Trường Sơn đều không phải là
đảng viên cộng sản. Họ chiến đấu thuần tuý vì lòng yêu nước. Thậm chí ngay cả
những người được kết nạp Đảng tại mặt trận lúc đó, họ cũng chẳng dính dáng hay
hiểu gì về các tư tưởng cộng sản. Những người lính ấy đã chiến đấu và chết vì một
lý do duy nhất là lòng yêu nước. Chính ở đây là một sự nhập nhèm của những người
cộng sản. Lòng yêu nước đã làm nên chiến thắng 30/04/1975 chứ không phải chủ
nghĩa cộng sản. Và bản thân lòng yêu nước thì đã luôn hiện diện ở Việt Nam trước,
trong và sau khi những lý thuyết cộng sản đến đất nước này. Tôi tin rằng dù có
hay không những người cộng sản ở Việt Nam thì đất nước cũng vẫn cứ giành được độc
lập bằng cách này hay cách khác, dù là theo lối chiến tranh hay hoà bình, vì
người Việt sẽ luôn không ngừng đòi hỏi nền độc lập. Trên thực tế, hầu hết các
nước thuộc địa trên thế giới sau này đều đạt được độc lập mà chỉ số ít phải
dùng tới chiến tranh. Và vấn đề chính ở đây là những người cộng sản đã tìm cách
đánh đồng chủ nghĩa cộng sản (vốn là một thứ ngoại lai) với chủ nghĩa yêu nước
(là thứ luôn sẵn có), và quy toàn bộ công lao giải phóng đất nước cho chủ thuyết
của họ.
Mượn sức mạnh của lòng yêu nước để đạt được quyền lực và thiết
lập được chế độ cai trị, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam đánh cắp luôn chiến thắng
ấy bằng cách ghi quyền cai trị của họ vào hiến pháp sau ngày thống nhất. Xương
máu và tổn thất thuộc về toàn bộ người Việt Nam, nhưng thắng lợi thì chỉ thuộc
về mình Đảng Cộng Sản. Trên thế giới hiện nay, có lẽ cũng chỉ có Việt Nam và
Trung Quốc là ghi áp đặt quyền cai trị của một Đảng cầm quyền vào hiến pháp.
Người dân Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập, đổi lại là một sự
cai trị áp đặt của Đảng cộng sản. Hơn 40 năm qua, họ chẳng có cơ hội lựa chọn
nào khác. Đây là một trong những bi kịch lịch sử cay đắng nhất của người Việt.
Tuy nhiên, chúng ta cần công bằng với lịch sử. Tôi tin rằng
ông Hồ Chí Minh và những người cộng sản đời đầu đều là những người yêu nước. Chỉ
có điều họ đã nhanh chóng đặt Đảng lên trên đất nước ngay khi giành được chiến
thắng. Và di sản mà họ để lại đã gây tai họa cho lịch sử đất nước trong nhiều
chục năm sau này.
Chế độ cầm quyền hiện nay kế thừa di sản của những người cộng
sản đời đầu. Họ hiểu rất rõ là người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận bất cứ một
chế độ cai trị nào làm tổn hại độc lập hay chủ quyền quốc gia. Và chính đây là
lý do dẫn đến mối quan hệ rất phức tạp giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng cộng
sản Trung Quốc. Một mặt thì Đảng cộng sản Việt Nam luôn có lý do để xích gần
Trung Quốc, khi họ là những thứ tồn tại bị thế giới coi là dị dạng, họ có nhu cầu
xiết chặt tay nhau. Đó là lý do ông Nguyễn Văn Linh tìm cách bắt tay với TQ bằng
mọi giá ở hội nghị Thành Đô, khi hàng loạt chế độ cộng sản trên thế giới sụp đổ.
Mặt khác, chế độ Việt Nam không thể không đối đầu với Trung Quốc khi chủ quyền
quốc gia bị xâm phạm. Đây chính là lý do mà chủ quyền Việt Nam cứ từng bước bị
tổn thất bởi Trung Quốc trong hơn 30 năm qua, khi bản thân Đảng cầm quyền luôn
bị giằng xé giữa việc xích gần kẻ xâm lược và sức ép bảo vệ chủ quyền đến từ
phía người dân.
Chủ nghĩa bành trướng hiện là một cứu cánh để kéo dài thời
gian cái trị của chế độ cộng sản Trung Quốc, nó khiến chế độ cộng sản Việt Nam
đối mặt với nguy cơ lớn nếu để mất chủ quyền. Tuy nhiên cũng chính sức ép này
hiện là một trong những công cụ tuyên truyền của chế độ Việt Nam, theo đó quyền
cai trị của họ cần được giữ nguyên nếu không đất nước sẽ bất ổn và bị thôn
tính. Tôi sẽ quay trở lại câu chuyện về luận điệu tuyên truyền này ở phần kế tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét