Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (phải) trò chuyện với các đại biểu Quốc hội trong phiên khai mạc tại Hà Nội ngày 21/03/2016.REUTERS/Kham
Đúng như kịch bản đã
định trước, Quốc hội Việt Nam hôm qua 31/03/2016 đã « miễn nhiệm » ông Trương Tấn
Sang, « giới thiệu » ông Trần Đại Quang làm Chủ tịch nước. Trước đó một ngày,
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã được « miễn nhiệm », người thay thế là bà
Nguyễn Thị Kim Ngân. Tương tự, đến ngày 6/4, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ bị «
miễn nhiệm » để nhường chỗ cho ông Nguyễn Xuân Phúc.
Tóm lại, là một loạt
thủ tục rắc rối có vẻ hợp pháp, nhưng mục đích là đưa toàn bộ ba nhân vật trong
bộ tứ lãnh đạo hiện nay, hiện không còn trong Bộ Chính trị, phải « về vườn »
trước thời hạn. Trong khi lẽ ra công việc bầu ban lãnh đạo mới là của Quốc hội
khóa 14, mà đến nay vẫn chưa được bầu ra. RFI Việt ngữ đã trao đổi với tiến sĩ
Phạm Chí Dũng ở Saigon về sự kiện này.
RFI : Thân chào tiến
sĩ Phạm Chí Dũng. Vì sao lại phải có quy trình thay đổi nhân sự cấp cao phức tạp
như đã và đang diễn ra tại Quốc hội Việt Nam, theo anh ?
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng
: Về sự kiện kỳ họp thứ 11 Quốc hội Việt Nam thay thế ba nhân sự lãnh đạo cao cấp
theo thứ tự là Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi những người này vẫn còn trong thời gian «
theo nhiệm kỳ làm việc của Quốc hội », tôi cho rằng đây là hệ quả tất yếu của
cuộc chiến quyền lực đã kéo dài nhiều năm trong đảng, đặc biệt bắt đầu nổi lên
vào năm 2012.
Là người phải nhòa nước
mắt tại Hội nghị trung ương 6 vào cuối năm 2012 khi không thể kỷ luật được « đồng
chí X », hẳn ông Nguyễn Phú Trọng đã quá thấm thía một bài học đắt giá về công
tác tổ chức và xử thế nhân sự mà giới chính trị gia Trung Quốc lưu truyền, áp dụng
trong suốt chiều dài mấy ngàn năm lịch sử cho tới tận bây giờ: « Nhổ cỏ phải nhổ
tận gốc ».
Hệ quả về thay thế
này đã bắt nguồn từ hai Hội nghị trung ương 13 và 14 trước Đại hội 12 vào cuối
năm 2015, và ngay trong Đại hội 12. Vào thời gian đó, có dư luận nhận định rằng
sở dĩ cả hai ông Trương Tấn Sang và Nguyễn Sinh Hùng đều phải rút lui khỏi Bộ
Chính trị là nhằm « kéo » ông Nguyễn Tấn Dũng cũng phải rút lui theo.
Nhưng thôi ủy viên Bộ
Chính trị vẫn chưa phải là « hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ». Đảng lý luận rằng
ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ làm gì trong khoảng thời gian từ sau Đại hội 12 đến tận
tháng 7/2016 là thời điểm kỳ họp đầu tiên của Quốc hội mới diễn ra. Thoạt đầu,
những người bên đảng còn đưa ra lý do này lý do khác về việc cần kíp « thay ngựa
giữa dòng », nhưng cuối cùng họ cũng phải nói một mập mờ: không để có « khoảng
trống quyền lực ».
Ngay phía trước vào
tháng Năm tới lại là cuộc tiếp đón Tổng thống Mỹ Obama tại Hà Nội, được coi là
đặc biệt mang tính thể diện và thực dụng để cho Trung Quốc thấy Việt Nam cũng
có bạn. Không chỉ thể diện của Tổng bí thư Trọng, mà cả người được ông Trọng cơ
cấu vào chức vụ thủ tướng là ông Nguyễn Xuân Phúc cũng có thể được nâng cao thể
diện nhờ vào cuộc tiếp đón này.
Nhưng muốn lấp đầy «
khoảng trống quyền lực », lại cần vai trò Quốc hội, không phải là Quốc hội mới
mà là Quốc hội cũ, vì có thể những người bên đảng không thể chắc chắn rằng Quốc
hội mới còn chịu « gật » theo ý đảng như Quốc hội cũ hay không. Thế là tiếp theo
« quy trình rất tập trung » của Đại hội 12, cả Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh
Hùng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đều « được » miễn nhiệm, bất chấp việc
hai ông này có đơn xin từ nhiệm theo quy định hay không. Tiếp đó là gì thì ai
cũng nhìn thấy: ông Nguyễn Tấn Dũng đương nhiên phải « nghỉ sớm ».
RFI : Như vậy thì
giai đoạn sắp tới sẽ như thế nào ?
Những người bên đảng
đã giành thắng lợi lớn trong cuộc chiến quyền lực và có thể bằng vào quan niệm
« đã loại được một nhà độc tài », nhưng xét cho cùng, nếu chính trị mà không
mang lại lợi ích gì cho xã hội và người dân thì đó chỉ là một thứ chính trị vô
nghĩa, một thứ chính trị báo trước tương lai sụp đổ.
Bởi thế, kết quả « loại
nhà độc tài » trong đảng không thể quan trọng bằng việc đảng, quốc hội và chính
phủ sẽ làm những gì sau đó để chống tham nhũng và để chặn đà khủng hoảng niềm
tin của nhân dân đối với chính thể này, giúp cho chế độ còn có lý do để tồn tại
thêm một thời gian nữa.
Muốn đạt được những mục
đích đó, tổ chức được xem là « cao nhất » là Quốc hội lại phải tự thân thay đổi,
chứ không thể để bị phụ thuộc vào ý chỉ « cương lĩnh đảng quan trọng hơn Hiến
pháp » như trước đây. Theo tôi, bà Nguyễn Thị Kim Ngân - chủ tịch mới của Quốc
hội Việt Nam - nhiều khả năng khó mà tạo ra được sự đột biến theo chiều hướng
tích cực để Quốc hội bớt « gật » và mang tính độc lập hơn so với thể chế « lãnh
đạo toàn diện » của đảng.
Trong suốt thời gian
từ khi được vào Bộ Chính trị và giữ cương vị Phó chủ tịch Quốc hội vào năm 2013
đến nay, bà Ngân đã lắng tiếng một cách đáng ngạc nhiên, gần giống như tình trạng
« hàng trăm đại biểu không phát biểu gì trong nhiều kỳ họp Quốc hội ». Cũng
không thấy bà Ngân đưa ra một sáng kiến công khai nào để cải thiện những vấn đề
then chốt của Quốc hội như làm luật, giám sát chính phủ và các chính quyền địa
phương, càng không thấy bà Ngân thể hiện chính kiến về việc vấn đề Biển Đông bị
Trung Quốc xâm lấn… Những dấu hiệu có tính chứng minh theo thời gian như thế
cho thấy bà Nguyễn Thị Kim Ngân có thể là người năng lực bình thường, thậm chí
rất bình thường, khó mà làm cho Quốc hội bớt tính lợi ích nhóm và « gần dân và
vì dân hơn ».
Quốc hội Việt Nam chỉ
có thể thay đổi theo hướng đi lên với điều kiện chính Tổng bí thư Trọng và
ê-kíp quanh ông thay đổi. Giả dụ ông Trọng quyết định nới hơn về dân chủ và để
rộng cửa hơn cho vai trò của Quốc hội, khi đó bà Nguyễn Thị Kim Ngân mới có cơ
hội để « mở miệng ». Nhưng giả thiết này còn phải chờ thời gian để kiểm nghiệm.
RFI : Một ẩn số nữa
là ông Trần Đại Quang…
Nhân vật thứ hai bên
cạnh Tổng bí thư Trọng và có vai trò có thể xem là thực chất hoặc chỉ mang tính
hình thức là ông Trần Đại Quang - người được cơ cấu vào chức danh chủ tịch nước.
Tôi không cho rằng ông Quang sẽ làm khá hơn người tiền nhiệm là ông Trương Tấn
Sang về nhiệm vụ « thống lĩnh các lực lượng vũ trang ». Cùng lắm, ông Trần Đại
Quang chỉ có thể can thiệp được phần nào đó vào Bộ Công an là nơi trước đó ông
là bộ trưởng.
Nhưng chủ tịch nước lại
đặc biệt liên đới mặt đối ngoại. Không chỉ đối ngoại về ngoại giao và công cán
nước này nước nọ, chủ tịch nước ở Việt Nam thường xuyên vấp phải những chất vấn
của nhiều chính phủ và quốc hội trên thế giới về thực trạng bết bát tối tăm về
dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Mà nhân quyền lại cơ bản phụ thuộc vào lối
suy nghĩ và hành xử của ngành công an, tức phụ thuộc vào ông Tô Lâm - người được
cho là sẽ thay thế chức bộ trưởng công an của ông Trần Đại Quang.
Nếu trong thời gian tới
mà ngành công an vẫn giữ nguyên quan điểm và lối hành xử trấn áp, đàn áp nhân
quyền thì chính Chủ tịch nước Trần Đại Quang sẽ phải « lãnh đạn » nhiều nhất từ
cộng đồng quốc tế, khiến nhiều chương trình hợp tác quốc tế về kinh tế như TPP,
vay vốn, nhận viện trợ… của chính thể Việt Nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
RFI : Còn về ông Nguyễn
Xuân Phúc, nhân vật sẽ điều hành chính phủ trong thời gian tới, thì như thế
nào, thưa anh?
Trách nhiệm nặng nề
nhất sẽ thuộc về ông Nguyễn Xuân Phúc - thủ tướng mới thay cho ông Nguyễn Tấn
Dũng. Ông Phúc sẽ phải « gánh » cả một di sản hậu quả khổng lồ từ thời chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng để lại: tham nhũng, lãng phí, nợ công, nợ xấu, bội chi, thâm hụt
ngân sách, trả nợ nước ngoài. Đây mới chỉ nói về kinh tế, chưa kể rất nhiều hậu
quả ghê gớm khác về xã hội.
Cho tới nay, « tham
nhũng vẫn ổn định » - nói theo một khái niệm mà Tổng thanh tra chính phủ Huỳnh
Phong Tranh đã phát ra. Cứ nhìn vào hiện tượng gần một triệu cán bộ kê khai tài
sản trên toàn quốc mà chỉ phát hiện có 5 trường hợp « kê khai không trung thực
» là đủ biết mật độ tham nhũng và bao che tham nhũng dày đặc đến thế nào. Tỉ lệ
thu hồi tài sản tham nhũng cũng quá thấp, chẳng hạn như ở TPHCM, chỉ thu hồi được
5 tỉ trong số 2.000 tỉ đồng bị thất thoát, tức chỉ có 0,25% - thua xa mức báo
cáo toàn quốc là 10%.
Còn nợ công thì hoàn
toàn không phải như tỉ lệ từ 50-55% GDP như chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vẫn thường
báo cáo, mà từ năm 2011 đã vọt lên đến ít nhất 98% GDP, khiến người dân Việt phải
è cổ ra gánh nợ. Trong khi đó, nợ xấu chiếm đến 17% tổng nợ nhưng mới chỉ xử lý
được chưa đầy 10% bằng « tiền tươi thóc thật », tức con số báo cáo của Chính phủ
và Ngân hàng nhà nước đã kéo giảm nợ xấu về dưới 3% là cực kỳ giả dối.
Cùng lúc, bội chi năm
2016 lên đến 6,1% GDP, chỉ thua mức bội chi năm 2013 là 6,3% GDP, nhưng hơn hẳn
con số 4,5% GDP mà chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã cam kết với Quốc hội vào cuối
năm 2015. Bội chi đến thế mà các địa phương xin kế hoạch chi cho năm 2016 vẫn
đưa tổng chi dự kiến gấp 20,5 lần con số mà ngân sách trung ương có thể chi, chứng
tỏ những âm mưu về xây trụ sở, công trình ngàn tỉ hoặc chục ngàn tỉ vẫn còn
nguyên vẹn, chỉ chờ ngân sách vay mượn được ODA là lập tức phóng tay đút túi.
RFI : « Nội lực » thì
như vậy, còn « ngoại lực » thì sao?
Từ cuối năm 2015 cho
đến nay, những tin tức vay vốn nước ngoài là hết sức xấu đối với chính thể Việt
Nam.
Tháng 12/2015, Ngân
hàng Thế giới đột ngột quyết định ngừng các khoản vay ưu đãi đối với Việt Nam.
Vào đầu năm 2016, cả hai chuyến làm việc tại Hà Nội của Chủ tịch nhóm Ngân hàng
Thế giới Jim Jong Kim và Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế Christine Lagarde đều
không mang lại bất cứ hứa hẹn nào về việc Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc
tế sẽ tiếp tục cho Việt Nam vay vốn ưu đãi, mặc dù hai nhân vật này đã được cả
tổng bí thư, chủ tịch nước và thủ tướng Việt Nam tiếp đón. Mà Ngân hàng Thế giới
và Quỹ Tiền tệ Quốc tế lại chiếm một tỉ trọng rất lớn trong tổng vốn cho Việt
Nam vay. Đến tháng 3/2016, đến lượt Ngân hàng Phát triển Á châu tuyên bố ngừng
cho Việt Nam vay vốn ODA ưu đãi…
Như vậy, bất chấp Đại
hội 12 và kỳ họp thứ 11 Quốc hội Việt Nam « thành công tốt đẹp » đến thế nào,
việc ưu tiên trước mắt của dàn nhân sự mới chính là trả nợ. Chỉ riêng năm 2016,
số tiền phải trả nợ chiếm tới gần 1/4 số thu ngân sách, tương đương khoảng
150.000 tỉ đồng. Những năm sau còn phải trả nhiều hơn.
Nhưng hầu bao nhà nước
thì thế nào? Cuối năm 2015, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh lần đầu
tiên tiết lộ « ngân sách trung ương chỉ còn 45.000 tỉ đồng ». Còn vào đầu năm
nay, Viện trưởng Kinh tế Trung ương Trần Đình Thiên phải kêu lên « Ngân sách
năm nay gay rồi! ».
Kịch bản xấu nhất đối
với không chỉ nền kinh tế mà cả với nền hành chính công ở Việt Nam là đến cuối
2016 hoặc sang năm 2017 sẽ có phá sản lớn trong hệ thống ngân hàng, bởi nợ xấu
không thể giải quyết được, cùng lúc ngân sách kiệt quệ. Khi đó, thậm chí tiền
trả lương cho công chức viên chức và lực lượng vũ trang cũng thiếu hụt trầm trọng.
Chẳng lẽ Ngân hàng Nhà nước phải in tiền ồ ạt vào lúc đó?
RFI : Có vẻ bức tranh
vẫn một màu xám, liệu có quá sức đối với ông Phúc ?
Khi bàn về những vấn
nạn quá mệt mỏi này, tôi chợt nhớ lại hình ảnh Cụ Rùa Hồ Gươm đột ngột qua đời
ngay trước ngày khai mạc Đại hội 12 đảng cầm quyền ở Việt Nam. Khi đó, tôi đã bị
ám ảnh bởi một điềm gở, rất gở đối với dân tộc này. Sau tết nguyên đán 2016 thì
đồng bằng sông Cửu Long bất ngờ bị nạn hạn hán và nhiễm mặn khủng khiếp. Cá
tôm, lúa, cây trồng chết như rạ và người nông dân khốn khổ gấp bội so với trước
đây.
Lịch sử Việt Nam đã từng
có những giai đoạn hạn hán không một giọt mưa kéo dài suốt ba năm liên tiếp,
khiến dân chết đói và sinh ra phản kháng dữ dội của người dân phải chịu sưu cao
thuế nặng đối với triều đình cai trị. Năm 2016 này Việt Nam không chỉ bị hạn
hán mà còn cả nhiễm mặn, lập tức xuất hiện những tố cáo về tình trạng chính phủ
Việt Nam« không làm gì cả » trong nhiều năm trước để cải thiện môi trường đồng
bằng sông Cửu Long.
Một hậu quả xã hội hoàn
toàn có thể xảy ra là: nếu năm nay người nông dân miền Tây Nam Bộ còn tồn tại
được nhờ vào số tiền tích lũy từ trước, thì đến năm 2017 nếu hạn hán và nhiễm mặn
vẫn tiếp diễn, nông dân sẽ sống bằng gì? Hay họ sẽ nổi loạn trong thế cùng tắc
biến?
Thủ tướng mới là Nguyễn
Xuân Phúc lại không phải là một thiên tài để có thể xoay chuyển tình thế, biến
không thành có. Trong suốt thời làm phó cho ông Nguyễn Tấn Dũng, ông Phúc hoàn
toàn mờ nhạt. Theo tôi, đặc điểm nổi trội của ông Nguyễn Xuân Phúc chỉ là ông
là người có thể chẳng mặn mà gì với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, mà ông theo chủ
nghĩa thực dụng, xu thời. Và trên hết, ông là người tham vọng chính trị.
RFI : Xin chân thành
cảm ơn tiến sĩ Phạm Chí Dũng.
Nguồn: RFI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét