Biên dịch: Hồ Hải Yến | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Nguồn: Li, Mingjiang (2012). “Chinese Debates of South China
Sea Policy: Implications for Future Developments”, RSIS Working Papers, No. 239
(Singapore: S. Rajaratnam School of International Studies).
Những năm gần đây là một giai đoạn đầy ắp sự kiện đối với
tranh chấp Biển Đông. Vào năm 2009, việc các bên khác nhau đệ trình các yêu
sách đối với thềm lục địa mở rộng lên Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Ranh giới Thềm lục
địa đã khởi đầu cho một cuộc chiến ngoại giao nảy lửa. Đặc biệt, hành động của
Trung Quốc trong việc đệ trình bản đồ đường chín đoạn ở Biển Đông lên Liên Hợp
Quốc đã làm bùng lên sự phản đối mạnh mẽ từ các quốc gia tranh chấp khác. Sự đối
đầu ngoại giao ở Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) vào năm 2010 ở Hà Nội, đặc biệt là giữa các quan chức Mỹ và
Trung Quốc, đã đánh dấu sự gia tăng căng thẳng chưa từng có đối với vấn đề Biển
Đông trong vòng hơn một thập kỷ. Nửa đầu năm 2011, hàng loạt các sự cố, bao gồm
việc Bắc Kinh phản ứng nặng tay với các hoạt động khai thác năng lượng và hải sản
của Philippines và Việt Nam ở Biển Đông, càng làm quan hệ giữa các bên tranh chấp
ngày càng xấu đi. Kết quả là mối bang giao giữa Trung Quốc và các quốc gia
tranh chấp trong ASEAN càng trở nên tồi tệ và các cường quốc bên ngoài ngày
càng can thiệp sâu hơn vào vấn đề Biển Đông.
Áp lực về ngoại giao và chiến lược nặng nề đặt lên vai Bắc
Kinh đã thúc đẩy giới làm chính sách và các nhà phân tích Trung Quốc chú ý hơn
đến vấn đề tranh chấp, khiến họ phải nghiên cứu chính sách của các quốc gia
khác và đưa ra những phản ứng thích hợp cũng như các lựa chọn chính sách trong
tương lai. Bài viết này nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan về những tranh luận
ở Trung Quốc đối với ba lĩnh vực: (1) cách thức các trường phái tư tưởng khác
nhau nhìn nhận các tranh chấp ở Biển Đông, (2) những dạng đề xuất chính sách được
đưa ra, và (3) những vùng đồng thuận và gây bất đồng. Bài viết cũng cố gắng
phân tích cách thức mà những cuộc tranh luận này liên quan đến lập trường chính
thức của Trung Quốc cũng như các chính sách và động thái thực tế của Trung Quốc
đối với tranh chấp. Là bên tranh chấp mạnh nhất và đã từng tham gia ba cuộc
xung đột quân sự liên quan đến tranh chấp lãnh thổ này, chính sách của Trung Quốc
có vai trò quan trọng trong việc hình thành các diễn biến trong tương lai của
cuộc tranh chấp cũng như xung lực của an ninh khu vực. Từ cái nhìn toàn diện
này, chúng ta có thể có được một vài manh mối hữu ích để hiểu rõ thêm phản ứng
của Trung Quốc đối với tranh chấp ở Biển Đông trong những năm sắp tới.
Có bốn chủ đề đáng lưu ý nổi lên từ cuộc tranh luận ở Trung
Quốc. Đầu tiên, đối lập với sự phê phán phổ biến từ bên ngoài về sự hung hăng
ngày càng tăng của Trung Quốc, đa số quan điểm của những nhà phân tích Trung Quốc
cho rằng sự căng thẳng và các tranh chấp chủ yếu là do sự câu kết giữa Mỹ và những
bên yêu sách khác trong khu vực. Thứ hai, họ cũng cho rằng Trung Quốc cần chủ động
hơn trên Biển Đông nhằm thay đổi trạng thái bị động hiện tại. Theo đó, Trung Quốc
có thể thực hiện được mục tiêu này bằng việc chủ động trong ba lĩnh vực: tăng tốc
khai thác tài nguyên ở Biển Đông; hạn chế sự can dự của Mỹ trong vấn đề Biển
Đông; và linh hoạt hơn trong việc áp dụng chủ nghĩa đa phương nhằm giải quyết
các thách thức an ninh phi truyền thống khác nhau ở Biển Đông. Thứ ba, đa số những
nhà nghiên cứu và quan chức Trung Quốc tin rằng các tranh chấp xung quanh Biển
Đông trong những năm qua đã khiến cho môi trường an ninh khu vực của Trung Quốc
bị xấu đi. Thứ tư, dường như có một sự đồng thuận đang gia tăng cho rằng Bắc
Kinh nên thi hành một chính sách Biển Đông ôn hòa, phù hợp hơn trong thời gian
sắp tới.
Người ta cho rằng có hai phe chính trong cuộc tranh luận ở
Trung Quốc: phe cứng rắn và phe ôn hoà.[1] Nghiên cứu này cho rằng còn có một
luồng quan điểm trung dung đáng lưu ý cho rằng cần có các chính sách cứng rắn
hơn nhằm bảo vệ quyền lợi của Trung Quốc tốt hơn, đồng thời cần duy trì tình trạng
không có đối đầu với các cường quốc bên ngoài cũng như các quốc gia tranh chấp
khác trong khu vực. Dựa vào những phát hiện này, nghiên cứu kết luận rằng Bắc
Kinh có thể sẽ thi hành chính sách cứng rắn nhưng tránh đối đầu trong tranh chấp
Biển Đông trong thời gian sắp tới.
Các quan điểm của Trung Quốc về nguồn gốc căng thẳng ở Biển
Đông
Nhìn chung, dường như có ba luồng quan điểm chính về nguồn gốc
căng thẳng ở Biển Đông trong thời gian gần đây. Nhiều học giả bên ngoài Trung
Quốc cho rằng Trung Quốc đã thi hành một chính sách cương quyết ở vùng Biển
Đông – dẫn đến căng thẳng trong khu vực.[2] Quan điểm này được thừa nhận rộng
rãi bởi truyền thông quốc tế cũng như nhiều nhà quan sát và quan chức nước
ngoài. Một số ít các nhà quan sát quốc tế lập luận rằng Trung Quốc, trong nhiều
trường hợp, chỉ đơn giản là đã phản ứng lại những hành động của các bên tranh
chấp khác mà Bắc Kinh cho là đang thách thức quyền lợi và yêu sách của mình
trong cuộc tranh chấp.[3] Cuộc tranh luận ở Trung Quốc đã hé lộ một quan điểm
thứ ba, cho thấy sự khác biệt về nhận thức đáng kể giữa Trung Quốc và thế giới
bên ngoài về nguồn gốc của các căng thẳng và xung đột ở Biển Đông trong những
năm gần đây. Quan điểm chủ đạo ở Trung Quốc cho rằng các quốc gia tranh chấp
khác và Mỹ đã câu kết để chống lại Trung Quốc. Trung Quốc dường như tin rằng sự
câu kết này là nguyên nhân của căng thẳng và xung đột ở Biển Đông từ năm
2009.[4]
Các chuyên gia Trung Quốc thường cho rằng yếu tố cốt lõi
trong tranh chấp Biển Đông trong những năm gần đây chính là chiến lược “trở lại
châu Á”[5] của Washington. Dường như nhiều người Trung Quốc cho rằng mục tiêu
chính của chiến lược “trở lại châu Á” là để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Ví dụ, quan điểm của Thiếu tướng hải quân (đã nghỉ hưu) Yang Yi thể hiện rõ
tình cảm bài Mỹ ở Trung Quốc. Ông Yang buộc tội Mỹ về việc “đẩy mạnh chính sách
ngăn chặn Trung Quốc đã có lâu nay: một mặt, họ (Washington) muốn Trung Quốc
đóng vai trò nào đó trong các vấn đề an ninh khu vực, mặt khác, lại dần thắt chặt
sự bao vây Trung Quốc và liên tục thách thức những lợi ích cốt lõi của Trung Quốc”.[6]
Nhóm các nhà phân tích Trung Quốc này cho rằng ủng hộ những nước có tranh chấp
lãnh thổ với Trung Quốc là một phần chiến lược của Washington.[7] Họ chỉ ra rằng
sự can dự ngày càng nhiều vào tranh chấp Biển Đông của Mỹ cũng được cổ xuý bởi
các quốc gia trong khu vực như Việt Nam và Philippines.[8] Nhiều tuyên bố chính
thức của Trung Quốc đã minh chứng cho cách giải thích này.[9]
Nhiều nhà phân tích cũng tìm cách xem xét toàn diện các
nguyên nhân dẫn đến căng thẳng ở Biển Đông. Theo một bài báo trên Nhân dân Nhật
báo, có ba nhân tố tạo nên căng thẳng gia tăng ở Biển Đông trong những năm gần
đây. Thứ nhất, các quốc gia lân cận ngày càng chú ý khai thác nguồn lợi kinh tế,
đặc biệt là tài nguyên năng lượng ở Biển Đông. Bài báo đặc biệt đề cập đến việc
doanh thu dầu và khí của Việt Nam chiếm đến 24 phần trăm tổng GDP nước này
trong năm 2010. Thứ hai, đó là sự dịch chuyển chiến lược sang Đông Á của Mỹ.
Washington đã sử dụng Biển Đông như một con bài để duy trì vị thế an ninh vượt
trội trong khu vực và điều này trùng khớp với mong muốn của nhiều quốc gia lân
cận trong việc quốc tế hoá vấn đề Biển Đông. Thứ ba, sự trỗi dậy nhanh chóng của
Trung Quốc đã khiến cho các quốc gia láng giềng tìm cách lôi kéo Mỹ vào nhằm
cân bằng lại sự trỗi dậy này.[10] Luận điểm cuối cùng, có phần nào nhìn vào bản
thân Trung Quốc để mổ xẻ vấn đề, dù không được nhiều nhà phân tích ở Trung Quốc
chia sẻ nhưng lại được chấp nhận bởi một số chuyên gia Đông Nam Á ở Trung Quốc.
Theo ông Ma Yanbing, một chuyên gia Đông Nam Á tại Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại
Trung Quốc (CICIR), sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc, đặc biệt là sức mạnh
hải quân, đã khiến Việt Nam lo sợ. Điều này khiến cho lãnh đạo Việt Nam nghĩ rằng
họ nên chớp lấy cơ hội cuối cùng để xử lý ván bài Biển Đông trước khi Trung Quốc
trở nên quá mạnh.[11]
Những năm gần đây, một đề tài thường xuyên được chú ý về
tranh chấp Biển Đông là các quan ngại về tự do hàng hải. Một luận điểm phổ biến
được các chuyên gia phân tích Trung Quốc thường xuyên đưa ra là Washington đã dựng
nên câu chuyện “tự do hàng hải” và sử dụng nó như một công cụ để gây áp lực cho
Trung Quốc. Họ cho rằng Mỹ đã đưa ra một giả thuyết sai trái về mối đe doạ tự
do hàng hải ở Biển Đông. Họ tin rằng Mỹ chỉ đơn giản đang niệm câu thần chú “tự
do hàng hải” như một cái cớ để xen vào ở tranh chấp Biển Đông nhằm duy trì ưu
thế quân sự vượt trội của Mỹ trong khu vực.[12] Nhiều chuyên gia Trung Quốc tin
rằng luận điệu của Mỹ về tự do hàng hải ở Biển Đông là nhằm nhấn mạnh lập trường
của Mỹ về việc tự do tiến hành các hoạt động trinh thám quân sự ở vùng đặc quyền
kinh tế của Trung Quốc, như sự cố tàu Impeccable đã chứng minh.[13]
Một bài báo trong Thời báo Quốc phòng chỉ ra rằng Mỹ đã tung
ra hàng loạt những tàu giám sát quân sự để thu thập thông tin tình báo từ các
quốc gia ven Biển Đông, đe doạ nghiêm trọng cho an ninh của các quốc gia này.
Tác giả tuyên bố rằng “sự tự do hàng hải thật sự mà Mỹ muốn đảm bảo chính là sự
tự do của Mỹ trong việc đe doạ quân sự các quốc gia khác”.[14] Quan điểm này dường
như cũng phản ánh lập trường chính thức của Trung Quốc. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) vào tháng Bảy
năm 2010 đã phản pháo lại tuyên bố của bà Hillary Clinton về Biển Đông bằng việc
phủ nhận tự do hàng hải là một vấn đề. Sau đó, người phát ngôn Bộ Ngoại giao
Trung Quốc đã nhiều lần nói rằng Washington chỉ sử dụng luận điệu về tự do hàng
hải nhằm trục lợi về mặt chiến lược và ngoại giao mà thôi.[15]
Xác định cách tiếp cận
Sự gia tăng những quan điểm cứng rắn
Các căng thẳng và tranh chấp trong những năm gần đây đã làm
gia tăng tinh thần dân tộc ở Trung Quốc. Những cư dân mạng Trung Quốc thường thể
hiện cái nhìn hết sức cứng rắn với những quốc gia tranh chấp khác, đặc biệt là
Việt Nam, Philippines cũng như Mỹ. Họ chỉ trích chính phủ Trung Quốc đã quá nhu
nhược trong vấn đề Biển Đông.[16] Một lá thư của độc giả gửi đến tờ National
Defence Times với tựa đề “Nếu hiện tại không mạnh tay ở Biển Đông, sẽ không có
bất cứ cơ hội nào trong tương lai” đã phản ánh cái nhìn diều hâu của một bộ phận
đáng kể công luận Trung Quốc.[17] Tờ Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc, vốn có
tiếng trong việc thu lợi từ việc kinh doanh chủ nghĩa dân tộc, đã xuất bản nhiều
bài báo và xã luận có quan điểm gay gắt về việc gia tăng căng thẳng ở Biển Đông
trong hai năm trở lại đây. Một bài xã luận thu hút được nhiều sự chú ý đã trình
bày như sau:
… một vài quốc gia
láng giềng của Trung Quốc đã lợi dụng những chính sách đối ngoại mềm dẻo của
Trung Quốc, biến nó thành cơ hội vàng để mở rộng lợi ích khu vực của họ… Hiện tại,
theo như quan điểm chính thống, trước hết Trung Quốc nên thông qua những kênh
đàm phán chính để giải quyết tranh chấp biển với các quốc gia khác. Nhưng nếu
tình huống chuyển biến xấu đi, thì cần phải có những hành động quân sự… Nếu những
quốc gia này không muốn thay đổi cách đối xử của họ với Trung Quốc, họ sẽ phải
đối mặt với nguy cơ chiến tranh. Chúng ta cần sẵn sàng cho điều này, bởi vì nó
có thể là cách duy nhất để giải quyết vấn đề tranh chấp biển.[18]
Có vẻ như giới quân sự Trung Quốc cũng đã lựa chọn một lập
trường cứng rắn đối với tranh chấp Biển Đông. Không lâu sau những mâu thuẫn giữa
Trung Quốc và Mỹ ở Diễn đàn ARF vào tháng 7 năm 2010 tại Hà Nội, Hải quân Quân
giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã tổ chức một cuộc diễn tập quy mô lớn ở
Biển Đông. Tổng tham mưu trưởng PLA Chen Bingde đã nói rằng: “chúng ta phải đặc
biệt chú ý sự thay đổi tình hình (ở khu vực) và sự gia tăng nhiệm vụ của chúng
ta; tự thân chuẩn bị cho đấu tranh quân sự”.[19] Ba hạm đội của PLA đã tiến hành một cuộc diễn
tập chung thay vì tiến hành các cuộc tập trận riêng rẽ như thường lệ trong suốt
lễ kỷ niệm thành lập PLA vào ngày 1 tháng 8. Xu Guangyu, chuyên gia cấp cao tại
Hiệp hội Kiểm soát Vũ khí và Giải trừ Quân bị Trung Quốc, cho rằng đây là phản ứng
của PLA đối với “một đòi hỏi chiến lược”.[20] Thiếu tướng Luo Yuan thì cho rằng:
“Trung Quốc là một nạn nhân của tranh chấp Biển Đông, tuy nhiên Trung Quốc đã
nhẫn nhịn. Các quốc gia tranh chấp lân cận không nên tiếp tục lấn tới… Nếu
không thì hậu quả có thể trầm trọng hơn là sự đe doạ suông.”[21]
Sự ôn hoà có tính toán
Giữa những tuyên bố và bình luận hiếu chiến, Trung Quốc nhận
thức rõ được những tác động tiêu cực của các diễn biến ở Biển Đông đối với quan
hệ an ninh của nó trong khu vực. Sách trắng thường niên về ngoại giao Trung Quốc,
được xuất bản bởi Bộ Ngoại giao Trung Quốc, và Sách xanh về Châu Á – Thái Bình
Dương (Asia-Pacific Blue Paper), được phát hành bởi Viện Khoa học Xã hội Trung
Quốc (CASS) vào tháng 1 năm 2011 đã cho rằng Trung Quốc đang phải đối mặt với
các thách thức an ninh chưa từng có trong năm 2010.[22] Một nhóm chuyên gia ở
CASS cũng kết luận rằng việc Mỹ “trở lại châu Á” đã gây nguy hiểm cho mối quan
hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng bằng cách tạo ra hàng rào ngăn cách
giữa hai bên, làm suy giảm lòng tin chính trị và tạo ra sự phức tạp mới.[23]
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia Trung Quốc vẫn giữ thái độ điềm đạm và ủng hộ một
cách tiếp cận ít nhiều thận trọng đối với vấn đề Biển Đông.
Vào đầu tháng 6 năm 2011, một số viện nghiên cứu chính sách
đáng chú ý, bao gồm CASS, Hội Thái Bình Dương của Trung Quốc, Quỹ Nghiên cứu Quốc
tế và Chiến lược của Trung Quốc, Đại học Nhân Dân, Học viện Thương Hải về
Nghiên cứu Quốc tế, phối hợp tổ chức một diễn đàn về các vấn đề an ninh liên
quan đến Trung Quốc và khu vực Thái Bình Dương. Quan điểm bao trùm của diễn
đàn, được tham dự bởi một số nhà phân tích Trung Quốc hàng đầu, đã khác biệt rõ
rệt với thái độ cứng rắn và hiếu chiến như miêu tả ở phần trên. Ví dụ, Liu
Jiangyong, một nhà phân tích an ninh tại Đại học Thanh Hoa, chỉ ra rằng Trung
Quốc nên nỗ lực dung hoà vị thế “ẩn mình chờ thời” (tao guang yang hui) với việc
“đạt được điều gì đó” (you suo zuo wei) trong tranh chấp Biển Đông. Ông cũng
đưa ra một gợi ý đúng đắn cho chính sách an ninh Trung Quốc ở Đông Á: hợp tác
lâu dài, phát triển lâu dài và an ninh bền vững, đồng thời ngăn chặn các mối đe
dọa thông qua hợp tác, và thúc đẩy hợp tác trong khi ngăn chặn các mối đe dọa.[24]
Nhiều nhà phân tích ở Trung Quốc bác bỏ thẳng thừng phương
án sử dụng vũ lực ở Biển Đông. Họ cho rằng việc sử dụng vũ lực là không thực tế
vì những hạn chế của Trung Quốc. Học giả đến từ Hải Nam Ngô Sĩ Tồn (Wu Shicun)
nhấn mạnh rằng Trung Quốc phải biết cân bằng giữa việc bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình với việc gìn giữ ổn định ở Biển Đông, đồng thời hướng đến sự ổn định
toàn cục ở Biển Đông nhằm giữ vững giai đoạn cơ hội chiến lược. Vì thế, ông tin
rằng trong tương lai, việc giải quyết vấn đề Biển Đông sẽ nhiều khả năng thông
qua biện pháp hoà bình, đặc biệt là thông qua đàm phán dựa trên cơ sở luật pháp
quốc tế và luật biển đương đại.[25] Thứ hai, việc sử dụng vũ lực có thể khiến
Trung Quốc rơi vào cái bẫy của Mỹ. Một học giả Trung Quốc cho rằng sự can thiệp
của Mỹ ở Biển Đông có thể là một âm mưu của Mỹ để lôi kéo Trung Quốc vào một cuộc
chiến tranh khu vực dai dẳng nhằm làm suy yếu Trung Quốc. Ông cho rằng chính vì
lý do này mà Trung Quốc nên thận trọng. Hơn nữa, Trung Quốc vẫn còn kém xa Mỹ,
nên cần nhiều thời gian hơn để phát triển quốc gia. Vì vậy, ông kết luận rằng
Trung Quốc hoàn toàn không cần thiết và quá mạo hiểm khi tham gia vào xung đột
quân sự.[26] Thứ ba, xung đột quân sự ở Biển Đông có thể làm chệch hướng chú ý
của Trung Quốc khỏi tranh chấp đối với Đài Loan. Từ quan điểm địa chính trị,
Trung Quốc nên duy trì quan tâm an ninh chủ yếu của mình vào Đài Loan và Nhật Bản
trong khi tìm cách xây dựng các quan hệ đối tác ở Đông Nam Á. Một khi Trung Quốc
vẫn chưa giải quyết xong vấn đề tranh chấp Đài Loan và đảo Điếu Ngư, Trung Quốc
nên tránh đối đầu với các quốc gia Đông Nam Á.[27]
Xue Li, một nhà chiến lược ở CASS cũng chứng minh rằng việc
sử dụng bạo lực ở Biển Đông sẽ lôi Trung Quốc vào nhiều hệ quả khó khăn khác:
áp lực ngoại giao nặng nề từ cộng đồng quốc tế về việc Trung Quốc thách thức luật
pháp quốc tế, phá huỷ môi trường khu vực ổn định cho sự phát triển hoà bình của
Trung Quốc, và làm mất đi giai đoạn cơ hội chiến lược cho sự phát triển xa hơn
của quốc gia.[28] Bác bỏ việc sử dụng vũ lực, các nhà phân tích khác nhấn mạnh
việc Trung Quốc cần tiếp tục sử dụng phương thức hoà bình để giải quyết tranh
chấp, và can dự quân sự với các quốc gia trong khu vực để nâng cao sự tin tưởng
lẫn nhau. Họ thúc giục Trung Quốc làm việc với các quốc gia tranh chấp khác để
giảm căng thẳng và đạt được một số đột phá trong đàm phán nhằm tránh việc Mỹ có
cớ để can thiệp.[29]
Cách xử lý chính thức các tranh chấp
Ở mức độ chính thức, phía Trung Quốc kiên định các yêu sách
của mình ở Biển Đông và bảo vệ các hành động quyết liệt chống lại các bên tranh
chấp khác. Cùng lúc đó, Bắc Kinh cũng tranh thủ cơ hội để cải thiện quan hệ với
các quốc gia tranh chấp khác. Dù sao đi nữa, cách xử lý chính thức các cuộc khủng
hoảng Biển Đông trong những năm gần đây đã phản ánh các chính sách mà các học
giả ôn hoà ủng hộ. Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng là cơ quan giữ vai trò chủ đạo
trong xử lý tranh chấp Biển Đông và họ luôn ủng hộ chính sách mang tính ôn hòa.
Khi được hỏi ý kiến về nội dung của bài xã luận nêu trên của Thời báo Hoàn Cầu,
người phát ngôn Bộ Ngoại giao cho rằng các cơ quan truyền thông có quyền biên tập
và bình luận. Bà cũng nói thêm rằng bà tin truyền thông Trung Quốc sẽ đưa tin một
cách trung thực, khách quan và có trách nhiệm. Sau đó bà nhắc lại ý định hoà
bình của Trung Quốc đối với các nước láng giềng và nhấn mạnh các cuộc đàm phán
là cách thức tốt hơn nhằm giúp ổn định tình hình.[30] Nhận định của bà có thể
được xem như là sự không đồng ý với bài xã luận của Thời báo Hoàn Cầu.
Các quan chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nỗ lực bảo vệ
chính sách bị cho là nhu nhược này. Một quan chức Ngoại giao tên là Zhang Yan
đã phản bác lại những chỉ trích cho rằng chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông
là quá yếu ớt tại diễn đàn hồi tháng 6 năm 2011. Bà bảo vệ chính sách của Trung
Quốc trên cơ sở cho rằng chính sách đối ngoại Trung Quốc là để phục vụ cho mục
tiêu tạo dựng một xã hội khá giả trong nước.[31] Nguyên Vụ trưởng Vụ Châu Á tại
Bộ Ngoại giao Trung Quốc Zhang Jiuheng cũng bảo vệ cho chính sách này rằng: “Vấn
đề Biển Đông thật sự rất phức tạp. Chúng ta cần thừa nhận sự tồn tại của tranh
chấp… Không ai muốn thấy căng thẳng trong khu vực. Không ai mong muốn có xung đột
quân sự trong khu vực cả.”[32] Đáp lại lời kêu gọi trong nước đòi Trung Quốc lựa
chọn lập trường cứng rắn hơn trong các vấn đề quốc tế, Uỷ viên Quốc vụ viện Đới
Bỉnh Quốc (Dai Bingguo) đã đăng một bài trên tờ Nhân dân Nhật báo vào tháng 12
năm 2010, trong đó ông có đề cập rằng: “nếu chúng ta không thể xử lý đúng đắn
các mối quan hệ với thế giới bên ngoài, cơ hội phát triển trong 20 năm của thế
kỷ mới được gầy dựng nên bởi nền hoà bình quốc tế, sự ổn định tổng thể trong
quan hệ giữa các cường quốc và sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công
nghệ, sẽ bị đánh mất”.[33]
Sự bất đồng ngoại giao tại ARF năm 2010 ở Hà Nội đã thúc đẩy
Bắc Kinh nhìn nhận nghiêm túc vấn đề Biển Đông, đặc biệt là chính sách mang
tính can thiệp ngày càng nhiều của Mỹ. Sau mùa hè năm 2010, Trung Quốc bắt đầu
có nhiều hành động để xoa dịu tranh chấp ở Biển Đông. Các bên tranh chấp khác
đã phản ứng tích cực trước những nỗ lực ngoại giao này. Vào tháng 8, Thứ trưởng
Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vinh đã đến thăm Bắc Kinh và một lần nữa cam
đoan với Trung Quốc về các ý định và cam kết ôn hoà của Việt Nam. Ông tỏ ý rằng
Việt Nam sẽ không theo đuổi ba hành động sau: tham gia liên minh với quốc gia
khác; cho phép thiết lập các căn cứ nước ngoài ở Việt Nam; và phát triển mối
quan hệ với các nước khác nhằm chống lại bên thứ ba.[34] Tại Hội nghị thượng đỉnh
Trung Quốc –ASEAN vào tháng 10, thủ tướng Ôn Gia Bảo đã xác nhận lại rằng Trung
Quốc sẵn sàng làm việc với các quốc gia ASEAN để thực hiện Tuyên bố về ứng xử của
các bên ở Biển Đông (DOC). Tại cuộc họp bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng
(ADMM Plus) lần đầu tiên, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt
(Liang Guanglie) đã phản hồi nhẹ nhàng khi vấn đề Biển Đông được đưa ra. Vào
tháng 10, Thứ trưởng Ngoại giao Trương Chí Quân (Zhang Zhijun) đã thăm bốn nước
ASEAN trong một chuyến đi tìm kiếm sự thật. Vào tháng 11, Phó Chủ tịch nước Tập
Cận Bình, trong một chuyến thăm Singapore, đã cố gắng đảm bảo với các nước về
khuynh hướng hoà bình của Trung Quốc trong khu vực.
Tới cuối năm 2010, nhiều nhà quan sát trông chờ một giai đoạn
tương đối hoà dịu ở Biển Đông vì các quốc gia tranh chấp đã bắt đầu đàm phán về
dự thảo bản hướng dẫn thực hiện DOC. Tuy nhiên, một loạt các hành động của các
cơ quan chấp pháp Trung Quốc chống lại các hoạt động kinh tế của Philippines và
Việt Nam ở Biển Đông một lần nữa lại thổi bùng mâu thuẫn từ tháng 3 đến tháng 6
năm 2011. Trước khi mâu thuẫn leo thang, Bắc Kinh và Hà Nội đã đồng ý đàm phán.
Tháng 6 năm 2011, Việt Nam đã cử đặc phái viên đến Bắc Kinh. Hai bên đồng ý về
những điểm sau: giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán; kiềm chế không thực
hiện những hành động có thể làm căng thẳng leo thang; chống lại sự can thiệp từ
bên thứ ba; và chủ động định hướng dư luận ở mỗi nước.[35] Cuối tháng 8, các
quan chức quốc phòng Việt Nam và Trung Quốc gặp nhau ở Bắc Kinh và thảo luận
cách thức giảm căng thẳng ở Biển Đông. Một số quan chức cấp cao của cả hai nước
tiếp tục gặp nhau ở Hà Nội vào đầu tháng 9 để tham dự cuộc họp lần thứ năm của
Uỷ ban chỉ đạo quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Cả hai nước đều nắm lấy cơ hội
này để làm giảm căng thẳng. Tuyên bố chung được đưa ra bởi các đồng chủ tịch của
ủy ban, Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc và Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, đều
mang giọng hoà giải, cả hai bên cam kết sẽ chấp hành DOC.
Sau vài tháng đàm phán, Bắc Kinh cuối cùng đã quyết định ký
kết văn bản này với ASEAN vào tháng 7 năm 2011 tại Hội nghị Ngoại trưởng Trung
Quốc – ASEAN. Trung Quốc cam kết hợp tác với các quốc gia tranh chấp khác để thực
hiện DOC và đề xuất đứng ra tổ chức một hội thảo về tự do hàng hải ở Biển Đông
cũng như thiết lập ba ủy ban kỹ thuật về nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi
trường, an toàn hàng hải và tìm kiếm và cứu nạn, và chống tội phạm xuyên quốc
gia trên biển.[36] Sau khi bản hướng dẫn được thông qua, tờ Nhân dân Nhật báo
đã nhận định rằng: “Điều này có lợi cho hoà bình và ổn định ở Biển Đông và sẽ
đóng vai trò quan trọng đối với việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và phân
định các vùng biển của Biển Đông giữa các quốc gia liên quan. Nó chứng tỏ rằng
Trung Quốc và các nước ASEAN đã có quyết tâm, niềm tin cũng như khả năng thúc đẩy
hoà bình và ổn định ở Biển Đông.”[37]
Chuyến thăm của lãnh đạo Đảng Việt Nam đến Trung Quốc vào
tháng 10 năm 2011 là một cột mốc đáng kể. Trong chuyến thăm này, cả hai nước đã
quyết định thiết lập một đường dây nóng giữa lãnh đạo hai nước, một chỉ dấu cho
thấy mối quan tâm chung trong việc ngăn chặn những khủng hoảng trong tương lai.
Hai nước cũng đồng ý thắt chặt hợp tác quân sự qua nhiều phương thức: tiếp tục
đối thoại chiến lược ở cấp thứ trưởng quốc phòng; chuẩn bị thiết lập đường dây
điện thoại trực tiếp giữa bộ quốc phòng hai nước, mở rộng giao lưu trao đổi giữa
những sĩ quan trẻ, thăm dò tính khả thi của việc tiến hành tuần tra chung dọc
biên giới; tiếp tục tuần tra hải quân chung tại Vịnh Bắc Bộ, và gia tăng các
chuyến thăm cảng lẫn nhau của hải quân hai bên. Trong thỏa thuận về nguyên tắc
cơ bản cho việc giải quyết tranh chấp biển, Trung Quốc và Việt Nam cam kết tìm
kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho các tranh chấp. Cả hai bên cũng đồng ý thảo
luận những giải pháp tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và yêu sách của
mỗi bên, bao gồm cả việc khai thác chung. Hai nước đều đồng ý trước tiên cần giải
quyết các vấn đề ít mâu thuẫn trước, bao gồm việc phân định ranh giới và khai
thác chung khu vực phía Nam cửa Vịnh Bắc Bộ, hợp tác bảo vệ môi trường biển,
nghiên cứu biển, tìm kiếm và cứu nạn cũng như ngăn ngừa và cứu trợ thiên tai.
Trung Quốc và Việt Nam cũng đồng ý để trưởng đoàn đàm phán về biên giới gặp gỡ
thường xuyên và thiết lập đường dây nóng để trao đổi nhằm giải quyết các xung đột
trên biển một cách kịp thời và hiệu quả.[38]
Trong chuyến thăm của Tổng thống Philippines Aquino đến
Trung Quốc vào cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 2011, cả hai nước đều làm nhẹ những
tranh chấp của họ ở Biển Đông. Tuyên bố chung được công bố trong chuyến thăm chỉ
đề cập ngắn gọn rằng tranh chấp biển không nên ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp
tác song phương giữa hai nước. Lãnh đạo hai bên lặp lại rằng họ sẽ giải quyết
tranh chấp qua đàm phán hoà bình và tuân thủ DOC.[39] Theo đó, Trung Quốc và
Philippines tập trung vào việc thắt chặt kinh tế. Hai trăm doanh nhân
Philippines cũng đã tháp tùng chuyến đi của Tổng thống Aquino. Trong chuyến đi,
nhiều đề xuất cho việc tăng cường hợp tác kinh tế cũng được công bố. Cả hai bên
đều thể hiện sự quan tâm chung đối với các liên doanh khai thác mỏ ở
Philippines vốn có thể thu hút từ 2 đến 7 tỷ đô la Mỹ đầu tư từ Trung Quốc.[40]
Bắc Kinh và Manila tuyên bố sẽ gia tăng mức thương mại song phương lên 60 tỷ đô
la Mỹ và nâng số khách du lịch lên 2 triệu người vào năm 2016.[41]
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc vào tháng
11/2011, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo cho rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục là một
láng giềng tốt, người bạn tốt và đối tác tốt của ASEAN, nhấn mạnh Trung Quốc sẵn
sàng làm việc với các quốc gia ASEAN để hướng đến việc thực thi toàn diện DOC.
Ông nói thêm rằng Trung Quốc cũng sẵn sàng thảo luận soạn thảo Bản Quy tắc ứng
xử ở Biển Đông (COC) và cam kết sẽ gia tăng viện trợ của Trung Quốc và hợp tác
kinh tế với ASEAN. Ông đề nghị gửi nhiều nhóm doanh nghiệp đến ASEAN để gia
tăng thương mại và đầu tư, thiết lập một trung tâm trưng bày sản phẩm ASEAN ở
Nam Ninh (thành phố trung tâm của Quảng Tây), và thúc đẩy hơn nữa kết nối đường
biển và đường bộ giữa Trung Quốc và Đông Nam Á. Ông Ôn cũng cam kết cung cấp
các khoản vay trị giá 10 tỷ đô la Mỹ (bao gồm 4 tỷ đô la Mỹ vay ưu đãi) cho các
dự án cơ sở hạ tầng ở các nước ASEAN và một quỹ hợp tác biển Trung Quốc-ASEAN với
số tiền 3 tỷ nhân dân tệ để hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học biển và bảo
vệ môi trường biển, vận tải đường biển, an toàn hàng hải, tìm kiếm cứu nạn, và
hoạt động chống tội phạm xuyên quốc gia.[42] Tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á,
ông Ôn đã không phản bác lại phát biểu của Tổng thống Obama và những lãnh đạo
khác. Thay vào đó, ông xác nhận lại tự do hàng hải ở Biển Đông. Ông cũng thể hiện
cái nhìn tích cực về DOC và lặp lại quan điểm chính thức của Trung Quốc về việc
tìm kiếm một giải pháp hoà bình cho các tranh chấp với các nước có liên
quan.[43]
Nhiều nhà quan sát đồng ý rằng các cơ quan chấp pháp biển
Trung Quốc đã trở nên hung hăng và cứng rắn hơn trong việc bảo vệ những gì được
cho là lợi ích của nước họ trên Biển Đông. Trong khi nhận định này là đúng,
cũng cần phải để ý rằng các tàu tuần tra của Trung Quốc dường như thể hiện thái
độ thận trọng ít nhiều. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2011, sau khi cảnh báo tàu khảo
sát của Philippines MV Veritas Voyager hoạt động gần Bãi Cỏ Rong (Reed Bank),
hai tàu tuần tra của Trung Quốc đã nhanh chóng rời khỏi hiện trường trước khi
máy bay và tàu của lực lượng tuần duyên Philippines đến. Những tàu tuần tra này
sau đó đã không trở lại hiện trường để tiếp tục quấy rối tàu của Philippines.
Các trường hợp tàu Trung Quốc cắt cáp của tàu khảo sát dầu
khí Việt Nam vào tháng 5 và tháng 6 năm 2011 lại phản ánh sự khác biệt nhỏ
trong cách thức Trung Quốc giải quyết hai sự kiện. Sự kiện đầu tiên vào cuối
tháng 5, thuỷ thủ đoàn trên một tàu hải giám Trung Quốc đã cắt dây cáp của tàu
khảo sát của Việt Nam. Trường hợp thứ hai vào đầu tháng 6, người Trung Quốc cố
gắng tinh vi hơn. Theo người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, các tàu cá của
Trung Quốc đã bị tàu có vũ trang của Việt Nam truy đuổi, và trong khi chạy trốn,
lưới đánh cá của một trong những tàu Trung Quốc đã bị vướng vào dây cáp tàu khảo
sát dầu Việt Nam. Tàu cá Trung Quốc đã bị kéo đi hơn 1 giờ trước khi nó được trả
tự do. Trường hợp thứ hai, nếu những tuyên bố của Trung Quốc được chứng minh là
đúng, sẽ chứng tỏ rằng Trung Quốc đã cố gắng khéo léo hơn nhằm tránh một cuộc đối
đầu trực tiếp với Việt Nam. Bên cạnh việc cho rằng tàu Việt Nam đang hoạt động
bất hợp pháp trên vùng biển mà Trung Quốc yêu sách, Bắc Kinh còn cố gắng biện
minh cho hành động cắt dây cáp với lý do bảo vệ ngư dân và tàu cá Trung Quốc khỏi
nguy hiểm.[44]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét