Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Thính giả Nguyễn
Thanh Khang, ở Toronto, Canada, hỏi:
“Kính thưa Bác sĩ,
Tôi tên Nguyễn Thanh
Khang, 83 tuổi, ở Toronto, Canada.
Hai năm nay tôi bị
ho, bác sĩ gia đình bảo là ho dị ứng có cho thuốc ho nước và viên nhưng không hết.
Bác sĩ cho đi thử máu, thử nước tiểu, chụp phim phổi, siêu âm cổ. Tất cả đều
khám 2 lần, kết quả đều tốt. Nhưng vẫn ho chừng chừng.
Tôi có ông bạn ở bắc
Cali mách cho tôi thứ thuốc mà ông đã dùng và trị hết ho. Đó là Robitussin AC
LIQ Mỗi lần uống 10 ml., ngày 3 lần.
Tôi uống tiếp 3 ve
thì hết ho. Tôi nghỉ uống 4 ngày thì ho trở lại. Tôi để xem ra sao thì ho nhiều
tôi phải mua uống tiếp. Phải có toa bác sĩ mới mua được.
Thuốc này uống lâu
ngày có hại gì không ?
Trân trọng,
Nguyễn Thanh
Khang"
Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả
lời:
Cũng như mọi khi, tôi
xin nói rõ là tôi không thể cho ý kiến cho trường hợp cá biệt. Tôi chỉ xin có một
số nhận xét tổng quát mà thôi, với một số kiến thức được chấp nhận và phổ biến
hiện nay.
1) Về thuốc ho, đối với
bệnh nhân có vẻ đơn giản, nhưng đối với bác sĩ đây là một vấn đề rắc rối, nhiều
tranh luận. Nền y học hiện nay muốn căn cứ trên các bằng chứng khách quan, vậy
mà khó tìm được bằng chứng khách quan cho thấy "thuốc ho" giúp ích
cho bệnh nhân phục hồi, hết bệnh nhanh hơn. Đa số bệnh nhân bị cảm cúm do nhiễm
trùng siêu vi không hồi phục nhanh hơn người không uống thuốc ho. Những biện
pháp như xông hơi nước, ăn cháo gà, uống nước nhiều, đầy đủ (bệnh nhân nóng sốt
dễ mất nước vì mồ hôi), tỏi, nước trà gừng (ginger tea), nghỉ ngơi có lẽ ích lợi
hơn.
2) Riêng về triệu chứng
ho, ho cũng có mục đích của nó: giúp cho cơ thể thanh toán, đẩy ra ngoài những
chất đàm nhớt từ mũi chảy xuống họng, trong cuống phổi. Tuy nhiên, nếu ho không
ra đàm thì làm mất ngủ, khó chịu, bực mình. Nhất là đối với trẻ con, làm cha mẹ
lo lắng, nhất là một số cha mẹ sợ rằng nếu bé ho mà không uống thuốc ho sẽ trở
nặng thành "sưng phổi". "Thuốc ho" là một sản phẩm kinh
doanh hàng tỷ đô la một năm ở Mỹ. Đa số chứa chất guaifenesin làm cho lỏng đờm
gọi là "expectorant" (vd Mucinex), chất dextromethorphan (trong các
thuốc ho có thêm hai chữ DM như Robitussin DM, Mucinex DM ); có thể thêm
acetaminophen, làm giảm nóng và giảm đau.
Một số thuốc "cảm"
muốn bao thêm các triệu chứng khác (“multi-symptom” cold medicine), chứa thêm
chất làm bớt nghẹt mũi, bớt đàm như phenylephrine, pseudoephedrine; chất kháng
histamine (antihistaminic, vd brompheniramine). Hai chất sau này có thể làm bệnh
nhân lừ nhừ, hoặc bị kích thích, bứt rứt, khó ngủ.
Các phản ứng phụ này
làm cho một số trẻ em phải vào phòng cấp cứu lúc các em ngộ độc vì các em uống
các chai thuốc ho cảm lúc cha mẹ sơ ý. Hay phụ huynh cũng có thể cho các em uống
nhiều quá, thấy em chưa giảm ho thì cho uống thêm nữa mặc dù chưa đến giờ, hay
cho uống hai ba thứ thuốc mà không biết rằng tác dụng kích thích hay là buồn ngủ,
làm lơ mơ, làm giảm nóng (acetaminophen) của các thuốc này cộng với nhau tới mức
độc hại.
Hiện nay, FDA không
chấp thuận dùng thuốc "cảm" (cold medicine) mua không cần toa cho trẻ
dưới 24 tháng. AAP khuyến cáo tránh dùng thuốc "ho, cảm " cho trẻ dưới
6 tuổi (trừ trường hợp theo hướng dẫn của bác sĩ).
Đối với người lớn,
các "thuốc cảm, thuốc ho" mua tự do nói trên tương đối an toàn nếu dùng
theo đúng hướng dẫn.
3) Riêng thuốc
Robitussin AC chứa chất làm lỏng đàm guaifenesin (100mg/5ml) và codeine
(10mg/5ml) là một chất narcotic nhẹ có khả năng ức chế phản xạ ho. Vào cơ thể,
codeine được chuyển hoá từ từ thành morphine, là chất ma tuý mạnh trong thuốc
phiện. Codeine dùng lâu có thể gây nghiện. Một số trẻ em bị chết vì ngộ độc
codeine trong vòng 1-2 ngày sau khi codeine đựoc dùng làm chất giảm đau sau khi
giải phẫu cắt a-mi-đan. Những trẻ em này chuyển hoá codeine thành morphine quá
nhanh (ultra-rapid metabolizers of codeine) tạo nên một lượng morphine nguy hiểm
trong cơ thể chúng, mặc dù liều codeine được dùng là liều trung bình được chấp
nhận.
Hiện nay, DEA (cơ
quan kiểm soát thuốc men Mỹ "Drugs Enforcement Agency") xếp codeine
vào Schedule II, bị kiểm soát cùng schedule với cocaine. Thuốc ho như
Robitussin AC vì chứa một lượng nhỏ codeine, thuộc schedule V, nhưng vẫn bị DEA
kiểm soát. (DEA xếp loại schedule từ I đến V, schedule I bị kiểm soát chặt chẽ
nhất, schedule V ít nhất).
Nói chung không nên
dùng thuốc ho có codeine như Robitussin AC hay Robitussin DAC (có thêm chất
decongestant cho các bệnh ho kinh niên, ví dụ do suyễn, viêm cuống phổi mãn
tính, phổi khí thũng (emphysema), ho ra đàm nhiều.)
Một số thuốc trị bệnh
áp huyết cao, thuộc loại "ACE inhibitors" (vd lisinopril) có thể làm
tăng lượng bradykinin và substance P trong cuống phổi, làm cho bệnh nhân ho
khan, không có đàm trong 5-35% trường hợp, phải đổi qua thuốc khác. Một loại
thuốc khác gọi là beta-blockers có khả năng làm cuống phổi thắt lại, khò khè và
ho. (Thuốc hạ áp huyết amlodipine thuộc loại thuốc trị bệnh áp huyết cao
“calcium channel blocker”, không làm ho.)
Tóm lại, càng dùng
nhiều thuốc càng nên cẩn thận tương tác giữa các thuốc, cũng như trùng lặp các
thuốc. Nên hỏi ý bác sĩ để được hướng dẫn. Ho chỉ là một triệu chứng, có thể do
bệnh hay do ô nhiễm môi trường. Thuốc ho chỉ là là biện pháp tạm thời, không thể
hay không nên dùng lâu dài, nhất là đối với người lớn tuổi hay trẻ nhỏ.
Những thông tin về
các “thuốc ho” đều là những đề tài gây tranh luận, cũng như tuỳ theo vị trí người
viết có tư lợi gì trong việc khen hay chê các thuốc đó hay không. Tôi xin liệt kê
những nguồn thông tin được dùng sau đây để quý vị tham khảo nếu muốn.
Xin cảm ơn vị thính
giả Nguyễn Thanh Khang đã đặt câu hỏi có thể giúp ích cho những người khác có
thắc mắc tương tự về vấn đề dùng thuốc, nhất là ở trẻ em và người già.
Chúc quý thính giả
may mắn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét