Nguyễn Hưng Quốc
Trên báo Đại Đoàn Kết ở trong nước ngày 10 tháng 1 năm 2016, có bài viết
nhan đề “Đưa tiếng Việt ra thế giới”, tác giả ghi nhận một sự kiện: Càng ngày
việc học tiếng Việt ở nước ngoài càng phát triển mạnh mẽ. Có hai biểu hiện
chính: Một, ở Hàn Quốc, học sinh có thể chọn môn tiếng Việt như một môn ngoại
ngữ để thi vào đại học; và hai, ở Úc, “tiếng Việt là một trong năm ngoại ngữ bắt
buộc”. Cuối cùng, tác giả đưa ra ý kiến của một số người, cho rằng chính quyền
Việt Nam cần giúp đỡ việc dạy tiếng Việt ở hải ngoại qua ba biện pháp: Một là mở
các khoá tu nghiệp cho giáo viên; hai là biên soạn các cuốn sách giáo khoa dạy
tiếng Việt để các cộng đồng người Việt ở hải ngoại có thể sử dụng; và ba là,
trong các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài nên có thêm chức tuỳ viên giáo dục
chuyên trách về việc phát triển các trường Việt ngữ.
Bài báo kết thúc bằng lời phát biểu của ông Nguyễn Thiện Nhân, chủ tịch
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: “Chúng ta gặp nhau với một tấm
lòng người trong nước hướng tới người nước ngoài cùng nhau lắng nghe để hiểu
nhau hơn. Trong bất cứ vấn đề gì cần sự chia sẻ, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam sẵn sàng chung tay góp sức với đồng bào ở xa Tổ quốc”.
Thật ra, trong bài báo trên, có nhiều chi tiết sai. Thứ nhất, ở Hàn Quốc,
không phải học sinh có thể chọn tiếng Việt như một ngoại ngữ để thi vào đại học
mà là, vào đại học rồi, sinh viên có thể chọn tiếng Việt như một ngoại ngữ để học.
Hai khía cạnh ấy khác nhau. Thứ hai, không phải chỉ ở Hàn Quốc, mà còn ở nhiều
quốc gia khác, như Mỹ, Pháp, Đức, Nhật, Úc, v.v… tiếng Việt cũng được dạy như một
ngoại ngữ ở đại học. Thứ ba, ở Úc, tiếng Việt không phải là “một trong năm ngoại
ngữ bắt buộc”. Ở Úc, trừ tiếng Anh, không có ngôn ngữ nào là “bắt buộc” cả. Tiếng
Việt chỉ là một trong mười ngôn ngữ được ưu tiên giảng dạy ở bậc trung và tiểu
học. Nhưng nó không phải là ưu tiên nhất. Ưu tiên nhất là bốn ngôn ngữ: Nhật,
Hoa, Hàn và Indonesia, bốn nước Á châu có quan hệ kinh tế và chính trị đặc biệt
quan trọng đối với Úc.
Nhưng cái sai nhất của bài báo là nhấn mạnh đến vai trò của chính quyền
Việt Nam trong việc dạy tiếng Việt ở hải ngoại. Có thể nói, từ hơn 40 năm nay, ở
hải ngoại, việc dạy tiếng Việt càng lúc càng phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước
khác nhau trên thế giới mà không hề cần bất cứ sự trợ giúp nào của chính quyền
Việt Nam. Hơn nữa, ở bất cứ đâu, khi chính quyền Việt Nam nhúng tay vào, ở đó,
việc dạy tiếng Việt đều bị chính trị hoá, chỉ gây chia rẽ, và cuối cùng, chỉ dẫn
đến thất bại.
Để nói đến các thành tựu trong việc dạy tiếng Việt ở hải ngoại, chúng
ta cần phân biệt hai đối tượng học sinh và sinh viên: Một là những người ngoại
quốc, và hai là trẻ em Việt Nam. Trong hai đối tượng ấy, thành công nhất là đối
tượng thứ hai: Cho đến nay, hầu hết các học sinh và sinh viên học tiếng Việt tại
các trường trung tiểu học cũng như đại học ở hải ngoại đều là những người Việt
thuộc thế hệ thứ hai hoặc thứ ba. Số người ngoại quốc học tiếng Việt tương đối
ít. Những người này học tiếng Việt vì hai, hoặc một trong hai, lý do chính: Một
là có vợ hoặc chồng (hoặc bạn gái/bạn trai) là người Việt Nam; hai là muốn làm
việc ở Việt Nam hoặc với người Việt Nam.
Đối với nhóm thứ nhất, tức học sinh và sinh viên người Việt, hai nước
thành công nhất là Úc và Mỹ. Ở Úc, nơi có hơn 200.000 người Việt sinh sống, mỗi
năm có gần 20.000 học sinh học tiếng Việt, từ lớp 1 đến lớp 12; hơn một nửa số
học sinh này nằm ở thành phố Melbourne thuộc tiểu bang Victoria. Ở Mỹ, đặc biệt
tại tiểu bang California, gần đây, chính phủ cho áp dụng phương thức dạy song
ngữ: học sinh, vào lớp, học bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt.
Những thành tựu như thế từ đâu mà có?
Trước hết là do chính sách của chính phủ sở tại. Ở Mỹ, việc dạy song ngữ
là một chủ trương chung của nhiều tiểu bang. Tại Úc, với chủ trương đa văn hoá,
chính phủ khuyến khích người dân, ngoài việc học tiếng Anh, cố gắng duy trì tiếng
mẹ đẻ và văn hoá truyền thống. Đó không phải là chủ trương suông trên lý thuyết.
Chính phủ Úc còn hiện thực hoá chủ trương ấy bằng cách tài trợ cho các trường dạy
ngôn ngữ sắc tộc để các trường ấy đủ tiền thuê mặt bằng dạy học cũng như trả
lương cho các giáo viên.
Thứ hai là do nhiệt tình của phụ huynh người Việt. Phải nói ngay là phần
lớn người Việt Nam, tuy sống ở nước ngoài, vẫn nỗ lực duy trì tiếng Việt không
những đối với thế hệ thứ hai (những người sinh ra ở ngoại quốc) mà còn đối với
cả thế hệ thứ ba (con cái của những người sinh ra ở ngoại quốc). Ở đâu có cộng
đồng người Việt ở đó cũng đều có các trường Việt ngữ với những quy mô khác
nhau. Nếu chính phủ địa phương không tài trợ, phụ huynh tự đóng góp để thuê
phòng ốc; còn giáo viên thì dạy thiện nguyện, không đòi hỏi bất cứ một thù lao
nào cả.
Ở các trường ấy, người ta có cần sách giáo khoa do Việt Nam biên soạn
và cung cấp không?
Câu trả lời rất rõ là: Không.
Lý do đầu tiên là tôi không tin ở Việt Nam người ta có thể biên soạn được
một bộ sách giáo khoa về tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai có giá trị. Qua những
bộ sách dạy tiếng Việt xuất bản trong nước, tôi thấy rõ một điều: phần lớn các
tác giả không phân biệt được tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ nhất và tiếng Việt
như một ngôn ngữ thứ hai. Hơn nữa, phương pháp giảng dạy ngôn ngữ của họ khá cũ,
và do đó, rất ít có hy vọng có kết quả khả quan.
Lý do thứ hai là ở Tây phương, trong các lớp ngôn ngữ, trong đó có cả
tiếng Việt, các giáo viên không nhất thiết cần có một bộ sách giáo khoa riêng.
Thường, Bộ Giáo dục chỉ đưa ra một cái khung chung, bao gồm đề tài và các yêu cầu
về từ vựng cũng như kiến thức văn hoá, dựa theo đó, các giáo viên sẽ tự soạn lấy
bài giảng cho mình. Chủ trương ấy xuất phát từ quan điểm: chỉ có giáo viên trực
tiếp đứng lớp là hiểu rõ nhất về yêu cầu cũng như trình độ của học sinh để có
thể đưa ra một tài liệu giảng dạy cụ thể và thích hợp.
Một lý do khác là ở hải ngoại từ mấy thập niên vừa qua đã có nhiều người
biên soạn sách giáo khoa để dạy tiếng Việt. Một số trong các cuốn sách ấy được
biên soạn dựa trên những phương pháp giảng dạy ngôn ngữ khá mới, có thể được sử
dụng để giảng dạy ở các lớp Việt ngữ.
Có thể nói một cách tóm tắt: chính quyền Việt Nam không nên nhúng tay
vào việc dạy tiếng Việt ở hải ngoại. Đó là lãnh vực mà cộng đồng người Việt ở hải
ngoại có thể tự lo liệu lấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét