PHẦN II - VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG KHUNG CẢNH THẾ GIỚI VỪA TRÌNH BÀY (tiếp theo)
HAI KIỂU ĐẾ QUỐC
Trong thời kỳ cường thịnh nhất của Đế quốc chủ nghĩa, các quốc gia không thuộc vào xã hội Tây phương đều bị thống trị trực tiếp hay gián tiếp bởi hai loại Đế quốc:
1. Đế quốc kiểu người Anh.
Chủ trương Đế quốc của người Anh rất rõ rệt. Họ chia các lãnh thổ làm hai loại: loại chiếm đóng di dân và loại chiếm đóng khai thác. Đối với loại chiếm đóng di dân thì họ dồn thiểu số người bản xứ vào một nơi và dần dần sự tranh sống tự nhiên sẽ đào thải. Kẻ chinh phục chiếm lấy đất đai và lập thành những quốc gia mới, như ở Bắc Mỹ và Úc châu. Nam Mỹ tuy không thuộc người Anh nhưng lại thuộc vào một chủ trương tương tự.
Đối với loại chiếm đóng khai thác thì chính sách của Anh lại hoàn toàn trái ngược. Họ rút kinh nghiệm sự chiến bại của họ ở Bắc Mỹ – lúc người Mỹ hiện nay đánh đuổi người Anh và dành độc lập –, và cho rằng nếu họ không loại được người bản xứ thì sớm muộn gì họ cũng phải có ngày trả lại độc lập cho dân bản xứ. Quan niệm trên dẫn dắt đến một chính sách dài hạn. Vì đoán trước có ngày họ phải ra đi nên, để lưu lại được cảm tình với dân bản xứ, họ đã thật tình đào tạo một lớp người có đủ khả năng để sau này thay thế họ. Đây là một đặc điểm căn bản của chủ nghĩa Đế quốc Anh đã được chứng minh là rất khôn ngoan và hiệu quả.
Đế quốc kiểu người Pháp, Hòa Lan và Bỉ ngược lại không rõ rệt giữa hai thái độ trên. Nếu nhiều điều kiện hợp lại không cho phép họ chủ trương chiếm đóng di dân, thì đồng thời họ cũng không nghĩ đến ngày phải trả độc lập lại cho dân bản xứ. Các sự kiện xảy ra sau thế giới Đại Chiến thứ Hai trong các thuộc địa Anh và trong các thuộc địa Pháp, Hòa Lan và Bỉ, đều bắt nguồn từ sự khác nhau của hai chính sách nói trên. Bởi vì không nghĩ đến ngày phải rời khỏi thuộc địa nên ngư ời Pháp, Bỉ và Hòa Lan không có đào tạo lớp người thay thế họ. Vì vậy cho nên, khác với các cựu thuộc địa Anh, các cựu thuộc địa Pháp, Hòa Lan và Bỉ, sau độc lập rồi, đều trải qua nhiều xáo trộn mãnh liệt, chỉ vì thiếu người có khả năng để thay thế các người ngoại quốc, mà điều khiển guồng máy quốc gia. Trên đây là một nhược điểm vô cùng quan trọng mà Việt Nam chúng ta phải mang chịu.
HẬU QUẢ
Nếu sự chúng ta thiếu người lãnh đạo ở trong lĩnh vực chính trị là do một nguyên nhân không thể tránh được, phát sinh từ sự mâu thuẫn tự nhiên phải có giữa những người muốn chinh phục một dân tộc và những người chống lại sự chinh phục đó, thì, trái lại, sự thiếu người lãnh đạo ở mọi ngành chuyên môn và mọi cấp bậc trong guồng máy quốc gia lại là hậu quả của một chính sách Đế quốc riêng biệt củangư ời Pháp, Hòa Lan và Bỉ.
Thi hành đúng theo chủ nghĩa Đế quốc của họ, chủ trương người Pháp không bao giờ muốn, và cũng không bao giờ thực hiện, việc đào tạo những người bản xứ có đủ khả năng để làm những công việc mà ngời Pháp đang làm và để, trong tương lai, thay thế họ. Thoảng như có những người bản xứ, nhờ những nỗ lực riêng, mà thâu thập được một sự đào tạo lý thuyết ngang hàng với các nhân viên cao cấp của họ, thì không bao giờ người Pháp lại giúp cho những người này những hoàn cảnh thuận lợi để họ có thể thâu thập những kinh nghiệm lãnh đạo cần thiết.
Và bởi vì những kinh nghiệm lãnh đạo thực tế như vậy mới đào tạo được những người lãnh đạo xứng danh, nên ngày nay khi chúng ta đã dành được độc lập rồi thì chúng ta không đủ người để điều khiển guồng máy các quốc gia.
Trong khi đó chúng ta chẳng những cần người để cho guồng máy chạy đều, mà hơn nữa, vì những hoàn cảnh như chúng ta sẽ thấy dưới đây, chúng ta rất cần người để cho máy chạy hết tốc độ. Thiểu số người trước kia đã được người Pháp dùng làm cộng sự viên trong nhiều năm, ngày nay với các kinh nghiệm đã thâu nhập được, không thể thay thế người Pháp trong nhiệm vụ của những người này hay sao? Không thể được, vì, trừ ra một số hết sức ít, với khả năng vượt hẳn mức thường, đã bẻ gẫy được vòng kìm hãm của người Pháp để tự học hỏi thêm đến trình độ chế ngự được ngành hoạt động của mình, còn lại là những người mang nặng các khuyết điểm dưới đây:
1.- Những kiến thức và kinh nghiệm của họ đều rời rạc và vặt vãnh. Họ không có óc tổng hợp để đặt những kinh nghiệm và kiến thức vụn vặt kia vào một hệ thống chung hầu nhận thấy sự liên hệ giữa các kinh nghiệm, và tìm thấy các nguyên tắc chung chi phối các trường hợp đặc biệt mà họ thường gặp phải. Vì vậy mà hành động của họ chỉ có hiệu quả trong các trách nhiệm sơ đẳng. Vượt lên quá tầm một ít là sự thất bại đến ngay vì như câu tục ngữ thường nói, họ không nhìn thấy rừng mà chỉ nhìn thấy tìm gốc cây “Phụ trách từng gốc cây thì được, nhưng không phụ trách toàn thể khu rừng được”.
Do đó những người này không làm sao vượt khỏi phạm vi nhỏ hẹp trong đó lâu nay họ vẫn quen làm việc để lên đến tầm quan trọng cần có khi sự việc không còn liên quan đến một lĩnh vực nhỏ nữa mà đã liên quan đến vận mạng của một quốc gia. Nếu giao cho họ những trách nhiệm quốc gia, đương nhiên họ sẽ làm giảm giá trách nhiệm đó bằng cách đưa nó tuột xuống ngang hàng một trách nhiệm khu vực nhỏ hẹp, tương xứng với quan niệm nhỏ hẹp đã ăn sâu vào cân não của họ. Với một lối nhìn như vậy và với sự bất lực quan niệm các vấn đề một cách rộng lớn tương xứng với nhu cầu của hoàn cảnh, sự thất bại của họ cũng đã cầm chắc. Đằng này ngoài khuyết điểm ấy họ còn mang nặng nhiều điều hư hỏng khác.
2.- Người Pháp đã chủ tâm đào luyện, cho những người họ dùng, những kiến thức và khả năng tương xứng với công dụng mà họ đòi hỏi. Ngoài ra, hoạt động và sinh sống nhiều năm trong không khí và tập quán mà người Pháp cố tình tạo ra cho những người đã được họ đặt vào một công dụng nhất định, những người này lần lần đã tự tạo một tâm lý vô trách nhiệm. Làm việc chỉ vì sợ hình phạt chớ không phải vì tự thấy trách nhiệm phải làm cho được việc. Tâm lý kém trưởng thành của người làm tay sai đó chính là người Pháp, lợi dụng tình thế hỗn loạn trong xã hội của chúng ta do chính sự chinh phục của họ gây nên, đã tạo ra cho lớp người được họ rèn luyện để làm công cụ và sau này, vì hoàn cảnh đương nhiên trở thành lớp người tai mắt trong xã hội chúng ta.
Xưa kia, khuôn khổ Khổng Mạnh của chúng ta, tuy đã thất bại trong nhiều lĩnh vực, nhưng ít ra đã đào luyện được lớp người thấm nhuần đạo người quân tử: có tâm lý của người trưởng thành và tinh thần trách nhiệm của người thọ lãnh sứ mạng. Tất cả các truyền thống tốt đẹp đó đã sụp đổ cùng một lúc với uy quyền chính trị của xã hội Việt Nam. Thiết tưởng, nếu người Pháp đã có một thái độ “không chen vào”, thì nội sự chiến bại của xã hội Việt Nam trước một kẻ xâm lăng có một nền văn minh hùng mạnh hơn cũng đủ mang đến sự sụp đổ của những giá trị cổ truyền.
Đàng này, chính họ với chủ nghĩa Đế quốc mà họ chủ trư ơng, đã thúc đẩysự sụp đổ nói trên để phục vụ quyền lợi chính trị của họ. Và tâm lý hiện tại của số người mà chúng ta sẽ đề cập đến trên đây vừa là hậu quả đương nhiên của một hoàn cảnh lịch sử vừa là kết quả của một chính sách vô cùng tai hại cho dân tộc. Trách nhiệm giao phó cho số người này phải tương xứng với “Tâm lý người đi thuyền” của họ. Xưa nay đã quen lối không bao giờ chịu chú trọng đến hướng đi và số phận của con thuyền, thì không thể nào phụ trách được việc lèo, lái và buồm, máy của con thuyền. Trách nhiệm này phải giao cho số người đã tự tạo tâm lý thuyền trưởng, trong khi chờ đợi chúng ta đào tạo lớp người mới có những đức tính mà nhiệm vụ đòi hỏi.
3.- Xưa kia, dưới thời quân chủ chuyên chế, guồng máy quốc gia xây dựng trên chế độ quan trường và chế độ này lại lấy cái học khoa cử làm nền tảng. Xét trong lịch sử của Việt Nam, cũng như của Trung Hoa, guồng máy quan trường đã qua nhiều thời kỳ thịnh vượng và để lại nhiều thành tích xứng đáng.
Sở dĩ như thế được là vì, chế độ quan trường, tuy tự nó hàm nhiều tệ đoan cố hữu, nhưng một khi nằm vào trong khuôn khổ quân chủ chuyên chế đã bị sự chế ngự tự nhiên và tương phối của những bộ phận khác trong cơ cấu quốc gia, nên các tệ đoan đương nhiên bị hạn chế và không bành trướng đuợc, cũng như mỗi bánh xe trong một bộ máy đồng hồ đều được sự chế ngự tương phối của các bánh xe chung quanh, nên tất cả đều chuyển động đồng thời và điều hòa. Nhưng tất cả tình trạng mực thước đó đều mất nếu chúng ta tách rời một bánh xe ra ngoài.
Trường hợp của chế độ quan trường của chúng ta cũng tương tự như vậy. Khi còn là một bộ phận của chế độ quân chủ chuyên chế, những cái tệ đoan của quan trường không phát triển được nhờ quyền hành rất rộng và hình phạt cấp thời của nhà vua. Khi người Pháp đến, chế độ quan trường được giữ lại, vì một sự tính toán khôn khéo, nhưng không còn có những sự chế ngự tự nhiên như xưa nữa. Các nhược điểm của quan trƣờng đương nhiên nẩy nở và sự tham nhũng và hà hiếp dân chúng đã lên đến mức độ tột cùng.
Người Pháp không có lý do gì mà tẩy trừ tình trạng đó, vì chủ trương của họ là để cho những người họ dùng không được lòng dân chúng. Và làm lợi cho dân chúng không phải là mối lo âu của chế độ thực dân. Vì vậy cho nên, tính cách quan liêu, phục tùng hèn hạ kẻ trên, và hà hiếp khinh miệt kẻ dưới là nhược điểm không thể cởi bỏ được của lớp người tai mắt trong thời kỳ thực dân.
Trong khi đó, như chúng ta sẽ thấy sau này, công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta trong giai đoạn này, đòi hỏi ở những người có trách nhiệm phải có đủ khả năng đến với dân, đi với dân huy động được đại quần chúng, lâu nay bị mê man trong giấc ngủ yên thân, để đưa họ dấn thân mạnh bạo và nhanh chóng vào con đường tiến bộ.
Sau này chúng ta sẽ thấy rõ công cuộc phát triển dân tộc có nghĩa là thực hiện những mục tiêu gì. Nay cần biết rằng, phát triển dân tộc là một công cuộc hết sức khích động cho người tham dự nhưng đòi hỏi thật nhiều cố gắng liên tục và những hy sinh lớn lao. Vì vậy mà đại quần chúng sẽ chóng mỏi mệt và chán ngán.
Nếu những người có trách nhiệm không thương mến nhân dân và không xem nhân dân là trọng, thì không làm sao mà nhân dân bằng lòng chịu đựng mệt mỏi và hy sinh để cùng tiến bước với người dẫn đạo. Những biện pháp độc tài và cưỡng bách nếu có áp dụng được thì những hiệu quả nhất thời không thể bồi đắp được những hậu quả tai hại lâu dài vừa cho người áp dụng được vừa cho người phải chịu đựng.
Sau này chúng ta sẽ phân biệt sự mị dân với sự hướng dẫn dân vào một kỷ luật chung, điều kiện thiết yếu để nắm thắng lợi trong công cuộc phát triển. Vì vậy mà nếu người có trách nhiệm không huy động được dân chúng, thì sự thất bại nắm chắc trong tay. Và cố nhiên những người huy động được dân chúng không phải là những người hà hiếp và khinh miệt họ cũng không phải là những người nịnh bợ và sợ sệt họ.
Tóm lại cho đoạn này chúng ta thấy rằng, chính sách Đế quốc kiểu Pháp, Hòa Lan và Bỉ đã lưu lại cho các dân tộc bị trị một hậu quả rất là tai hại: sau khi độc lập rồi, sự thiếu người lãnh đạo trong các ngành là một trở lực vô cùng to tát cho công cuộc phát triển dân tộc. Nhưng đó không phải là hậu quả duy nhất. Xem lại lịch sử của các công cuộc chinh phục của Tây phương, chúng ta nhận thấy rằng khi bị tấn công, các dân tộc đều ý thức ngay tình thế nghiêm trọng và sự cần thiết phải vận dụng lực lượng quốc gia để đương đầu với một thử thách quyết định sự sống còn của tập thể. Bản năng sinh tồn đã đánh thức ngay khả năng tự vệ đối với một vật ngoại lai toan xâm nhập vào nội bộ cơ thể.
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét