
PHẦN II - VỊ TRÍ CỦA
VIỆT NAM TRONG KHUNG CẢNH THẾ GIỚI VỪA TRÌNH BÀY
Theo như đã trình bày trên đây thì vị trí quốc tế
hiện tại của Việt Nam do các điểm dưới
đây minh định:
1.- Việt Nam là một nước nhỏ và kém mở mang.
2.- Theo truyền thống văn hóa,
Việt Nam thuộc vào xã hội Đông Á.
3.- Việt Nam thuộc vào khối các nước Á Châu vừa thoát khỏi ách thực
dân đế quốc.
4.- Việt Nam đang cần phải Tây phương hóa như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để: Một là tồn tại, bảo vệ độc lập;
hai là để phát triển đời sống kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Bốn điểm trên đây minh định vị
trí của nước chúng ta trong
thế giới ngày nay vừa trong lĩnh vực địa dư vừa trong lĩnh vực tiến hóa chung của nhân loại. Vì vậy cho nên,
cùng với những điều kiện nội bộ riêng cho Việt Nam mà chúng ta sẽ thấy sau này,
các điểm này chi phối mọi đường lối chính trị của chúng ta trong ít lắm là vài
thế kỷ. Do đó, việc phân tích từng điểm một, bốn điểm trên đây là một việc
thiết yếu.
VIỆT NAM LÀ MỘT NƯỚC NHỎ VÀ KÉM MỞ MANG
Mục đích của những trang nhận
định này không phải để xách động quần chúng, nên không phải chỗ để ca ngợi sự
nghiệp mấy ngàn năm văn hiến của tổ tiên chúng ta, và cũng không phải chỗ để
cho chúng ta hãnh diện với những trang sử oanh liệt của người xưa. Những người có
trách nhiệm với tiền đồ dân tộc không thể tự ru ngủ trên dĩ vãng, mặc dầu dĩ
vãng đó thật có là anh hùng đi nữa.
Trái lại, một nhận định khách
quan rất cần thiết cho những ngƣời lãnh đạo, nếu họ muốn tránh những sơ xuất có
hại cho tương lai của một dân
tộc. Tự ti mặc cảm khi nhìn thấy nước
nhà yếu và kém không phải là tâm trạng của những kẻ quật cường. Trên quan điểm đó chúng ta phải nhìn
nhận rằng trong thế giới ngày nay nước
chúng ta là một nước nhỏ và
dân tộc chúng ta là một dân tộc kém mở mang. Chẳng những thế, trong suốt mấy
nghìn năm lịch sử, chưa lúc
nào dân tộc chúng ta đã đạt lên được
mức một văn minh chiếu sáng. Vì vậy chúng ta còn ở vào tình trạng thụ hưởng hơn là tình trạng góp phần vào
văn minh nhân loại.
Tuy nhiên, dĩ vãng của chúng ta
cho phép chúng ta tin rằng dân tộc ta có
một năng lực tiềm tàng khả dĩ trong một tương lai rất ngắn đưa
chúng ta thoát khỏi tình trạng thứ nhứt để vào tình trạng thứ hai. Đó là mục
đích và lý do của cuộc tranh đấu hiện tại của chúng ta.
Bởi vì theo luật quân bình, người thụ hưởng bao giờ cũng đứng sau người đóng góp, và trong thực tế mức sống của
ngƣời thụ hưởng phải kém mức
sống của người đóng góp. Và
tranh đấu để thoát khỏi tình trạng kém mở mang có nghĩa là vừa tranh thủ một
mức sống cao hơn cho dân tộc, và cũng có nghĩa là sẵn sàng lãnh trách nhiệm đóng
góp vào văn minh thế giới.
Như vậy đối với chúng ta nỗ lực để thoát khỏi tình trạng kém mở mang có
thể hình dung bằng một sự cố gắng để vượt qua lằn mức ranh giới giữa tình trạng thụ hưởng và tình trạng đóng góp. So sánh với
các nƣớc kỹ nghệ mở mang ngày nay, nước Việt Nam chúng ta nhỏ
vì đất đai không rộng, dân số ít và thiên sản không phong phú. So sánh với các
khối kinh tế vĩ đại như Nga
Sô, Trung Cộng, Ấn Độ, Mỹ quốc và khối Âu Châu đang thành hình, chúng ta lại còn
không đáng kể vào đâu nữa.
Trên phương diện quân sự, những kỹ thuật nguyên tử
tối tân với sức tàn phá mãnh liệt có thể làm giảm đi yếu tố đông dân và tức
nhiên số lượng quân đội cao
không còn ảnh hưởng nặng nề
trên sự thắng bại. Tuy nhiên, lên đến một mức độ nào đó, ví dụ lên đến khối dân
số Trung Cộng, yếu tố dân đông vẫn còn là một yếu tố đáng kể.
Vì vậy mà trong trường hợp của chúng ta, nếu chúng ta khắc
phục được những kỹ thuật
nguyên tử, thì cái họa xâm lăng đối với chúng ta chỉ có giảm chớ không có chấm
dứt. Trên phương diện kinh
tế, yếu tố đông dân đối với kỹ thuật sản xuất đại qui mô của cơ khí là một yếu
tố quyết định. Dân càng đông thị trường
càng mạnh. Có một mức tiêu thụ tối thiểu trong mỗi ngành kỹ nghệ, dưới mức đó sự sản xuất kỹ nghệ không
thể thực hiện với các điều kiện thuận lợi.
Nhưng thị trường
tiêu thụ càng lớn lại là một động cơ thúc đẩy kỹ nghệ càng nảy nở, càng trưởng thành, càng phát triển vì giá
sản xuất càng nhẹ và mức lời càng lớn. Đó là lý do tranh giành thị trường trong thế kỷ vừa qua và hiện
nay. Như vậy nếu dân số ta ít
thì điều kiện nảy nở của kỹ nghệ chúng ta rất kém và sự cạnh tranh với khối
kinh tế bên ngoài là một điều mà chúng ta không thể đương đầu nổi. Trên phương diện văn hóa, việc dân số ít là một
trở lực to tát. Ngôn ngữ của chúng ta chỉ được một thiểu số sử dụng. Những sáng tác bằng Việt ngữ, ví dụ mà
thật sự có giá trị thế giới đi nữa thì không có mấy người biết đến giá trị đó vì chuyển ngữ của
chúng ta không được nhiều người biết.
Chỉ nghĩ đến việc một tác phẩm
bằng Anh ngữ hay Hoa ngữ có thể phổ biến ngay cho khắp thế giới thì đủ thấy cái
mãnh lực của sự đông dân như
thế nào. Trong một khối người
to lớn như vậy có thể trao
đổi tư tưởng với nhau chỉ vì chuyển ngữ của họ được nhiều người sử dụng. Dân tộc chúng ta chỉ vì dân số
ít, phải ở ngoài vòng tư tưởng trên
trừ ra một số ngƣời biết ngoại ngữ. Dân số ít lại còn là một trở lực trong công
cuộc phát triển như chúng ta
sẽ thấy dưới đây.
Trong khuôn khổ thế giới ngày
nay, một dân tộc kém mở mang là một dân tộc có một tình trạng ứng vào các điều
kiện dưới đây:
1.- Thiếu kỹ thuật và phương tiện kỹ thuật sản xuất.
2.- Do đó lợi tức quốc gia thấp
kém.
3.- Do đó mức sống của toàn dân
thấp và thiếu.
4.- Sự mưu sống hằng ngày chiếm hết thời gian và
năng lực, đời sống văn hóa không mở mang. 5.- Sự sáng tác kém giá trị và sự góp
phần vào văn minh của nhân loại không có.
Trình bày như trên đây, ta nhận thấy rằng điều kiện thứ
nhứt là nguyên nhân của điều kiện thứ hai và cả hai là nguyên nhân của điều
kiện thứ ba và ba điều kiện đầu lại là nguyên nhân của điều kiện thứ tư, vân vân... Và như vậy nguyên nhân chính và trước tiên của sự kém mở mang là thiếu kỹ thuật
và thiếu phương tiện kỹ thuật
sản xuất.
Nhưng muốn có đủ kỹ thuật, nghĩa là máy móc sản xuất thì phải có được một trình độ văn hóa khá cao
cho toàn dân, và phải có lợi tức dồi dào để mua dụng cụ máy móc. Như thế các điều kiện ảnh hưởng tương phối nhau làm thành một cái vòng lẩn
quẩn. Đưa dân tộc lên đường phát triển có nghĩa là bẻ gẫy
cái vòng luẩn quẩn đó. Vì thế cho nên các phương pháp phát triển đề nghị hay mang ra thực hiện ngày nay trong
các nước trên thế giới, kể cả
phương pháp Cộng Sản, chung
qui chỉ là một phƣơng pháp bẻ gãy cái vòng lẩn quẩn nói trên.
Và dưới đây chúng ta sẽ có dịp trở lại, một cách
chi tiết hơn, vấn đề cốt yếu này. Nay chỉ nhận xét thêm là các điều kiện trên
cho chúng ta thấy rằng, công cuộc phát triển không phải là một công trình mà
một nhóm người hay một thiểu
số có thể thực hiện được. Chỉ
toàn dân hay là đại đa số cùng quyết tâm đứng lên mới có thế đạt đến kết quả.
Đây là một yếu tố quyết định, nó sẽ chi phối nặng nề các sự lựa chọn đường lối sau này.
Điều thứ hai cần phải nêu lên là
cái vốn duy nhất có thể dùng ngay được
của các nước kém mở mang là
công nhân. Vì vậy mà dân số đông lại là một lợi khí cho công cuộc phát triển,
theo một phương pháp lao công
cưỡng bách. Yếu tố này cũng
là quyết định đối với sự lựa chọn đường
lối sau này.
VIỆT NAM THUỘC XÃ HỘI ĐÔNG Á
Xã hội Đông Á gồm có các nước Đài Loan, Nhật Bổn, Triều Tiên và
Việt Nam bao quanh đại lục Trung Hoa. Trong hơn sáu ngàn năm lịch sử, các quốc
gia trong xã hội này đều đã tiến hóa từ nền văn minh phát sinh trong đất Hán và
lấy Hán tự làm nền tảng và phương
tiện cho sự phát triển trong các lĩnh vực.
Cuộc xâm lăng của Tây phương gây ra nhiều sự thay đổi, bởi
vì đứng trước hiểm họa chung
phản ứng của mỗi dân tộc mỗi khác. Do đó mỗi dân tộc, tùy theo sự nắm được hay không những cơ hội đưa đến cho mình, đã đi theo những
con đường càng ngày càng khác
nhau, dẫn dắt đến sự cách biệt mà chúng ta nhận thấy ngày nay.
Trước thời kỳ đó, tất cả các quốc gia trong xã hội Đông Á kể trên đều
tin tưởng và bảo vệ những giá
trị như nhau trên các lĩnh
vực chính trị, văn hóa và tôn giáo. Tất cả đều áp dụng chính trị quân chủ
chuyên chế. Tất cả đều thừa nhận như
là một di sản chung các sáng tác bằng Hán văn. Nền mỹ thuật của tất cả các quốc
gia đều phát triển theo những tiêu chuẩn chung. Tất cả các quốc gia đều tin tưởng vào Phật giáo và Lão giáo, lấy
giáo điều của Khổng Mạnh làm mực thước
cấu tạo xã hội.
Nguyên nhân của tình trạng lúc
bấy giờ, chia làm nguyên nhân địa dư
và nguyên nhân lịch sử. Trong một thời kỳ mà phương tiện giao thông nghèo nàn, việc giáp ranh với nhau là một yếu
tố đè nặng lên sự bang giao của hai nước. Dân tộc chúng ta đã rút nhiều kinh nghiệm xương máu về tình trạng ấy. Ngày nay nhiều
phát minh khoa học có làm cho vạn lý và trùng dương cách biệt không còn là những trở lực không vượt nổi như khi xưa. Tuy
nhiên ảnh hưởng sự lân cận
giữa các quốc gia, nếu có giảm đi vẫn còn là một yếu tố quan trọng trong sự
giao hảo giữa hai nước.
Và trong sự chọn lựa đường lối của chúng ta sau này, sự chúng ta
ở sát nách Trung Hoa là một yếu tố vô cùng thiết yếu. Ngoài những nguyên nhân
địa dư như trên, nhiều sự kiện lịch sử đã cấu tạo
những dây liên hệ giữa Trung Hoa và các quốc gia cùng trong một xã hội Đông Á,
như chúng ta đã thấy ở trên.
Với thời gian, các dây liên hệ về
tôn giáo, văn hóa và xã hội đã ăn sâu vào tiềm thức của các dân tộc cùng một xã
hội. Vì thế cho nên không có một lầm lẫn nào to tát cho bằng sự tin tưởng rằng trong một vài thế hệ hay
một vài thế kỷ có thể thay đổi được
tất cả tư tưởng của một dân tộc. Nói một cách khác nếu
mỗi người Việt Nam đều đồng
một ý chí không muốn mình thuộc vào xã hội Đông Á nữa, thì chúng ta cũng không
thực hiện ý chí đó được, vì
bởi ý thức thuộc vào xã hội Đông Á đã ăn sâu vào các tế bào của chúng ta và
thoát khỏi tầm chủ động của lý trí chúng ta.
Đó là trường hợp tất cả chúng ta đều cùng một ý
chí, huống hồ là nếu chỉ có một nhóm người quyết tâm làm việc đó và nhứt quyết cưỡng bách mọi người phải theo họ, lại càng là một trù tính
không căn bản và không tương
lai. Nhiều phúc trình thí nghiệm khoa học đã xác nhận rằng các cuộc tẩy não có
thể cùng lắm là thay đổi thành kiến chúng ta được chớ không di chuyển được bản chất của chúng ta. Hơn thế nữa, nếu bằng một phép nhiệm mầu
gì chúng ta có thể cắt được nước Việt Nam tách ra khỏi Châu Á và
mang đặt nó cùng với cả dân tộc chúng ta vào một nơi khác của địa cầu thì chúng
ta cũng sẽ suy nghĩ và phản ứng như
những người trong xã hội Đông
Á.
Trên đây chúng ta đã có đề cập
đến việc Tây phương hóa, là
một điều khẩn yếu cho chúng ta. Nay chúng ta vừa thấy rằng dầu có muốn đi nữa
chúng ta cũng không thể thoát ra khỏi khung cảnh hình thức và vô hình của xã
hội Đông Á. Như vậy việc Tây
phương hóa và việc thuộc vào
xã hội Đông Á có mâu thuẫn nhau không? Muốn trả lời được câu hỏi này một cách tường tận, ta cần biết trước tiên Tây phương hóa là như thế nào, nội dung của một phần dưới đây.
Nay ta cứ nhận rằng việc Tây phương hóa là việc thâu nhận các kỹ
thuật, lối suy luận và nhiều tập quán của Âu Mỹ, không làm cho chúng ta mất được bản chất của dân tộc. Như vậy việc mâu thuẫn nêu trên sẽ là
không có. Một nhận xét khác càng thuyết minh cho lởi nói quả quyết này.
Các dân tộc ở xã hội Tây phương đều sử dụng một kỹ thuật và
tôn sùng một khoa học như
nhau. Tất cả đều có một lối suy luận lấysự chính xác của lý trí làm nền tảng.
Và tất cả đều sống trong một khuôn khổ ngăn nắp và minh triết như nhau – sự sinh sống và ăn mặc đều như nhau – thế mà họ vẫn khác nhau ở
trong các sáng tác. Như vậy
là bản chất dân tộc họ vẫn giữ. Bản chất dân tộc của chúng ta sẽ bộc lộ ra
trong các sáng tạo của chúng ta, khi nào mà chúng ta đã chủ động được các phương tiện và phương pháp sáng tạo của Tây phương. Và đây là mục đích chính của công
cuộc Tây phương hóa mà chúng
ta đang theo đuổi.
Biết như thế rồi chúng ta mới thấy rằng trong công cuộc Tây phương hóa chúng ta cần phải dốc hết nỗ lực
vào công cuộc ấy, không e dè, không rụt rè, không ngần ngại. Biết như thế rồi chúng ta mới thấy tính
cách vô ích của sự nơm nớp lo sợ mất quốc hồn và quốc túy của một lớp người trước đây ngồi mà cãi nhau năm này qua tháng
nọ xem phải duy tân đến mức nào. Họ thật là những người ngồi nhà mà bàn việc lên tàu xuống xe
phải đứng ngồi làm sao.
Biết như thế rồi chúng ta lại thấy tính cách không
thực tế của một nhóm người
chủ trương thay đổi tư tưởng của một dân tộc bằng những phương pháp độc ác và tàn bạo áp dụng cho vài thế hệ. Sự họ thất bại sẽ
dĩ nhiên. Nhưng tai hại họ sẽ
lưu lại cho dân tộc, như chúng ta sẽ thấy sau này, không
biết bao giờ mới gỡ hết.
VIỆT NAM THUỘC VÀO KHỐI CÁC NƯỚC Á CHÂU VỪA THOÁT KHỎI ÁCH THỐNG TRỊ
THỰC DÂN ĐẾ QUỐC.
Bắt đầu từ thế kỷ thứ X, các cường quốc trong xã hội Tây phương mới phôi thai. Dưới sự thúc đẩy của hoàn cảnh và những biến
cố lịch sử phát sinh ra do sự lân cận với xã hội Hồi Giáo, đang thời cường thịnh, các quốc gia mới đã nỗ
lực tìm mọi lối thoát khỏi vòng vây càng ngày càng siết chặt của các đội binh hùng
mạnh của các nhà lãnh đạo Ả Rập.
Từ ngày thoát thai từ trong sự
sụp đổ của văn minh Hy Lạp và La Mã, lần đầu tiên xã hội Tây phương đụng phải một thử thách vô cùng quan
trọng và quyết định sự mất còn cho nền văn minh vừa chớm nở. Nhưng cùng trong dịp này xã hội Tây phương tỏ ra xứng đáng với di sản lý
trí thừa hưởng của văn minh
Hy Lạp - La Mã và sinh lực dồi dào mà giáo lý Gia Tô hun đúc trong nhiều thế
kỷ. Sức mạnh phi thường của
tín ngưỡng đã nuôi dưỡng và duy trì những nỗ lực cần
thiết một cách liên tục trong nhiều thế kỷ. Mặt khác sự chính xác về lý trí đã
hướng dẫn hữu hiệu cái khối
sinh lực to tát trên vào vòng hữu ích và hiệu quả. Nhờ vậy mà xã hội Tây phương chẳng những đã chiến thắng lần
ấy, mà sau này còn vượt nhiều
trở lực để chiếm được ưu thế như chúng ta mục kích ngày nay.
Nhờ những yếu tố trên, người Tây phương đã phát minh nhiều kỹ thuật tối tân,
cải thiện không ngừng phát minh cũ, rèn luyện những khí giới lý trí ngày càng
tinh vi để bảo đảm cho những phát minh tương lai. Sinh lực dồi dào của tín ngưỡng đã giúp cho họ áp dụng các phát minh trên đến một mức độ ngày
càng lên cao, trong một tầm rộng lớn càng ngày càng bành trướng. Và trong sự vùng lên đó, xã hội Tây
phương đã chẳng những bẻ gãy
vòng vây của xã hội Hồi Giáo đang dồn họ vào phía Tây của đại lục Âu Châu, lại
còn chinh phục được thế giới
như chúng ta đều biết.
Nguồn gốc của các đế quốc Tây phương là do sự kiện trên đẻ ra. Để thoát
khỏi sự bao vây của xã hội Hồi Giáo, người Tây phương đã
chế ngự được các kỹ thuật vượt biển và mang những khí giới mà
một nền kỹ thuật tân tiến đã trang bị cho họ để đi chinh phục các dân tộc kém
hơn về kỹ thuật.
Trước tiên, Y Pha Nho và Bồ Đào Nha hướng đạo cuộc chinh phục. Sau đó Anh, Pháp, Hòa Lan, Bỉ đã nối chân
và thay thế hai cường quốc
tiền phong khi hai nước này
đã mệt mỏi và suy nhược. Lần
lượt các quốc gia trên thế
giới không phải thuộc vào xã hội Tây phương đều bị tấn công, chiến bại, chiếm đóng và chinh phục. Tùy hoàn
cảnh và tùy mãnh độ cuộc kháng chiến, các dân tộc bị chinh phục hoặc bị tiêu
diệt và đất đai bị biến thành đất đai của người chinh phục như
ở Nam và Bắc Mỹ, Úc châu, Tân Tây Lan, Nam Phi, hoặc biến làm thuộc quốc như Thái Lan, các nước Cận Đông hay bán thuộc địa như Trung Hoa, hay thuộc địa như Việt Nam.
Và hậu quả lưu lại cho các dân tộc bị chinh phục cũng
tùy theo hoàn cảnh riêng mà nhiều hay ít tai hại. Ngày nay vấn đề không thành
cho những dân tộc đã bị tiêu diệt. Các nước đã bị làm bán thuộc địa hoặc thuộc địa, khi cởi được ách rồi còn phải lãnh chịu những hậu
quả tuy có khác nhau tùy theo hoàn cảnh địa phương nhưng đều
giống nhau vì bị chi phối bởi những sự kiện lịch sử chung. Các hậu quả lại khác
nhau, tùy theo chế độ đế quốc đã phải chịu đựng.
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
Ngô Đình Nhu (1910-1963)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét