Ngư dân Chu Văn Thủy chấp nhận gác thuyền cất nông, gia đình thất nghiệp. (Ảnh TinTM.com)
Trùng
với thời điểm Ủy ban Kiểm tra trung ương bất ngờ công bố tên một số
quan chức như Võ Kim Cự, Nguyễn Minh Quang, Nguyễn Thái Lai… “dính” vụ
cấp phép cho thuê đất và cấp phép xả chất thải cho nhà máy Formosa Hà
Tĩnh, Ngân hàng Nhà nước cũng có động tác yêu cầu “các ngân hàng thương
mại nhà nước rà soát, tổng hợp và báo cáo về số tiền dự kiến cho vay,
khoanh nợ, số tiền lãi cần được cấp bù theo Quyết định 12/QĐ-TTg tại các
tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế trước ngày
08/3/2017”.
Động
tác trên nằm trong đề án “Xác định thiệt hại, thực hiện bồi thường, hỗ
trợ; khôi phục sản xuất và đảm bảo an sinh xã hội cho người dân bị ảnh
hưởng do sự cố môi trường biển tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị và Thừa Thiên Huế”.
Liệu
đề án trên có khả quan hơn hứa hẹn “sẽ chi hết tiền bồi thường cho ngư
dân” của Thủ tướng Phúc từ tháng 8/2016, nhưng qua hai đợt giải ngân và
cho tới nay, số tiền bồi thường mà 4 tỉnh miền Trung đã nhận được mới
chỉ có 4,680 tỷ đồng, tức chỉ bằng khoảng 1/3 tổng số tiền bồi thường.
Mà đây cũng chỉ là con số báo cáo, trong khi nhiều người dân phản ánh
vẫn chưa nhận được tiền.
Còn
với một số gia đình ngư dân đã nhận tiền, họ phản ánh số tiền bồi
thường là quá còm cõi, chỉ đủ chi dùng trong 3 đến 6 tháng. “Sau nửa năm
nữa thì chúng tôi biết sống bằng gì?” – những ngư dân này kêu lên với
phóng viên.
Còn
bây giờ, cái cách Ngân hàng Nhà nước “vào cuộc” làm người ta nhớ lại cơ
quan này cùng hệ thống ngân hàng thương mại cấp dưới của nó đã “giúp
ngư dân vay tiền đóng tàu sắt để đối phó với Trung Quốc” ra sao.
Hãy
nhớ lại, những hứa hẹn của chính phủ “cho ngư dân vay tiền đóng tàu
sắt” từ giữa năm 2014 đã trôi ngược lên Trung Nam Hải. Sau một thời gian
tuyên truyền lẫn tuyên giáo như thể nhà nước sẽ làm tất cả cho ngư dân
của mình, một lần nữa trong rất nhiều lần người dân lại mất nốt những hy
vọng xót xa còn lại.
Bị
giới ngân hàng chỉ biết “còn đảng còn tiền” bày ra vài chục loại thủ
tục, và ngâm hồ sơ đến cả năm trời, chỉ có khoảng 10% ngư dân được giải
ngân. Nhiều ngư dân khác đã phải nuốt giận rút hoặc hủy hồ sơ vay vốn.
Kế hoạch “đóng tàu sắt” của Việt Nam cho tới nay có thể xem như bị phá
sản, ngược lại với thực tế hàng chục ngàn tàu sắt của ngư dân Trung
Cộng, được Bắc Kinh trang bị đến nơi đến chốn, để ồ ạt đánh bắt cá ở
Biển Đông.
Trong
khi đó, vụ ngư dân Trương Đình Bảy bị bắn chết xảy ra ở khu vực Trường
Sa vào tháng Mười Một, 2015 cho đến nay vẫn hoàn toàn chìm xuồng. Chính
quyền Việt Nam vẫn không hề đoái hoài đến việc tìm ra thủ phạm, còn tất
cả những gì được coi là “sẽ điều tra làm rõ” của các cơ quan chức năng
Việt Nam vẫn là không công bố được bất kỳ manh mối nào về kẻ thủ ác, vẫn
cấm khẩu đến mức đáy lương tâm.
Nếu
xét theo bài học đắt giá mà ngư dân buộc phải nhận từ chính sách “cho
ngư dân vay tiền đóng tàu sắt”, sẽ không khó để hình dung rằng đề án của
Ngân hàng Nhà nước “đảm bảo an sinh xã hội cho người dân 4 tỉnh miền
Trung” sẽ thuộc loại đầu voi đuôi chuột. Rất có thể, việc “rà soát” mà
Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các ngân hàng cũng sẽ được tiến hành tương tự
cái cách mà Thủ tướng Phúc từng yêu cầu chính quyền 4 tỉnh miền Trung
“thống kê, xác định thiệt hại của ngư dân”, nhưng phải mất đến 6 tháng
sau đó mới cho ra được vài bản báo cáo quan liêu và tắc trách.
Để cuối cùng những nạn nhân môi trường mới là kẻ phải ăn “quả lừa” cay đắng tiếp nối cay đắng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét