Chuyển ngữ: Nguyễn
Ước
Tác giả Justin E.H. Smith
Toàn cảnh bao quát là, nếu chủ nghĩa cá nhân cùng chủ nghĩa
tập thể tại các cực điểm của nó chỉ là một trục của mặt phẳng Descartes vốn
cũng bao gồm sự đối lập của những cái mà từ cuộc Cách mạng Pháp, chúng ta gọi
là tả và hữu. Dĩ nhiên trong thực tế, có chuyển động quả lắc đầy ý nghĩa giữa
hai cái đó. Trong trạng thái cực kỳ kích động mang tính sùng bái thần bí, người
nông dân nổi loạn theo chủ nghĩa Mao lao mình vào chỗ chết có thể cảm thấy giống
y như người phi công Nhật Bản đọc Goethe trong lúc chuẩn bị phi vụ thần phong cảm
tử của mình. Gần đây hơn, Steve Bannon thú nhận rằng các sách lược của ông là để
thúc đẩy những trận quyết đấu của phía cực tả. Năm 2013, Bannon nói với một ký
giả rằng: “Lê-nin muốn hủy diệt nhà nước. Mục đích của tôi cũng vậy. Tôi muốn
làm cho mọi sự tan tành sụp đổ, và hủy diệt toàn bộ thiết chế hôm nay.”
Mishra được hòa hợp sắc nét sự thụ phấn chéo ý thức hệ ấy.
Ông vạch rõ ra rằng các phong trào bạo động tập thể, dù khác nhau tới mấy đi nữa,
cũng thường chung chia lòng căm thù mang tính tự mãn trưởng giả tự do chủ
nghĩa. Nhiều nhà tư tưởng chính trị và nhiều kẻ sách động được ông luận bàn, dịch
chuyển sự thành tín của họ từ cực này sang cực kia, một chuyển động thường chỉ
cần một bước nhỏ chứ không đòi hỏi phải kiểm tra toàn bộ quan điểm điều chỉnh.
Như trong trường hợp Gabriele D’Annuzio [1863–1938], nhà phiêu lưu và tác giả
quí tộc, kẻ buông bỏ chủ nghĩa xã hội để theo chủ nghĩa phát-xít và lãnh đạo
Nhiếp chính Carnaro, một nhà nước đoản mệnh trong một nhà nước, Mishra thấy một
kiểu mẫu của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc bạo động mà về sau sẽ hấp dẫn các
không tặc 9/11 [ở New York, 2001] và những kẻ đánh bom tự sát của Nhà nước
Islam.
D’Annuzio và Osama bin Laden [1957–2011] là những linh hồn
có quan hệ thân tộc: những kẻ cuồng tín vượt-ra-ngoài-hiện-hữu, có khả năng chọn
lựa nếu họ muốn, sống hết đời mình như những tay chơi phi chính trị. Tới lượt
những kẻ được họ ra sức tuyển mộ mà một cách điển hình, không là những kẻ
“nghèo nhất trong những người nghèo, hoặc thành viên trong giới dân quê hay
giai cấp dưới chốn thành thị”, mà là “thanh niên có học, thường thất nghiệp, di
dân sống ở thị trấn, hoặc những kẻ xuất thân giai cấp trung lưu bậc thấp”. Người
cực kỳ nghèo thì bị vong thân khiến họ chỉ nhận biết lờ mờ việc mình bị gạt ra
khỏi cái gì đó. Người phát-xít Ý, người thánh chiến Saudi Arabia, và các cử tri
Mỹ bỏ phiếu cho Trump, đều bị dẫn đạo bởi khát vọng tăng tiến địa vị dù nó kết
đôi với xung động tự hủy diệt, vốn không tương hợp với sự theo đuổi một cuộc sống
tốt hơn.
Dĩ nhiên có sự đa dạng
trong những kẻ ghi tên đi theo chủ nghĩa phát xít, từ người lao động đang vật lộn,
chán chường với đồng lương sụt giảm, tới người trí thức đang choáng váng, hi vọng
có sự chuyển đổi mọi giá trị. Có thể xếp những kẻ ủng hộ Trump theo chuỗi hàng
dọc bao quát y như vậy, từ người cảm thấy bị phản bội do sự đánh mất giấc mộng
Mỹ tới người nghĩ rằng giấc mộng Mỹ dành cho các chuẩn mực khờ khạo, và muốn triệu
một thế giới mới thành hiện thực bằng pháp thuật, y hệt Pepe the Frog, nhân vật
hóa thân trong truyện hoạt hình của phái cực hữu dân tộc chủ nghĩa da trắng. Đối
với loại người thứ hai vừa kể, cũng như đối với những kẻ xuất bản tạp chí tuyên
truyền Dabig của Nhà nước Islam, thì hoạt động chính trị là mục tiêu hàng đầu.
Thậm chí khi nó có vẻ đang tiến hành theo phương thế nghị trường bình thường
thì nó vẫn chỉ là trò chơi của sức mạnh, và trong sự ổn định nhất của mọi thời
đại, luật pháp chỉ có ý nghĩa chừng nào chúng được tôn trọng, hoặc khi không được
tôn trọng thì cưỡng bách thi hành. Khi nào và ở đâu luật pháp được thi hành, với
lợi thế và bất lợi của nó, là một phần của vở tuồng hát, rất giống với cuộc tấn
công khủng bố chiếm trang nhất tờ báo. Như thế, chúng ta có thể nghĩ rằng kẻ khủng
bố cũng như các diễn viên chính trị phản chính trị kia đều làm ra tấn tuống ăn
khách, táo bạo và có thị kiến.
Loại táo bạo này khó kéo dài vì nó có khuynh hướng bộc phát
vào các khoảnh khắc riêng rẽ: cuộc Cách mạng Islam tại Iran năm 1979, cuộc cách
mạng Trump tại Mỹ năm 2016. Những biến cố ấy cung cấp khán giả, những kẻ rất muốn
có vẻ táo bạo với cơ hội tỏ dấu từ khước một Tây phương tự mãn tự do chủ nghĩa,
bằng cách đưa ra sự ủng hộ một thay đổi cực đoan và đột ngột tiến hành. Khoảnh
khắc Michel Foucault [1926–84] xem là táo bạo, đến với cuộc Cách mạng Iran
[1979] mà ông gọi là “cuộc khởi nghĩa đầu tiên và vĩ đại chống hệ thống toàn cầu,
một dạng nổi loạn hiện đại nhất và cuồng điên nhất.” Sau đó một thế hệ và trước
cuộc bầu cử ở Mỹ năm ngoái [2016], Slavoj Žižek [1949- ], nhà tư tưởng
Slovania, kẻ xây dựng sự nghiệp từ sự thể hiện một loại du ca, đã mang chủ
nghĩa khuynh tả Trump ra công khai khi ông nói với một nhà báo rằng ông sợ
Hillary hơn đối thủ của bà ấy.
oOo
Mishra thiết lập một trường hợp hấp dẫn rằng nhà tư tưởng hiện
đại đầu tiên của Tây phương đã xây dựng căn cước trí thức của mình trên sự từ
khước lòng mộ đạo bình thường Tây phương, không ai khác hơn Jean Jacques
Rousseau [1712–78]. Ngày nay, dĩ nhiên lý thuyết gia khế ước xã hội người
Geneva ấy đã hoàn toàn bị bình thường hóa và qui điển hóa khiến cho truyền thống
cách mạng trung khuynh được ông tấn phong giờ đây chỉ vỏn vẹn là hồi ức. Tuy
nhiên, vẫn còn có thể thấy rằng việc từ bỏ toàn cầu những hy vọng và hứa hẹn của
thể chế dân chủ tự do đã bắt đầu, cho dù chúng ta sẽ tiếp tục xem bạo lực bùng
nổ, mà chúng ta có cho tới gần đây, là do bản chất đặc biệt của các chiến binh
thánh chiến Islam như là cái gì đó ngoại lai với bản chất của chúng ta ở đây, tại
Châu Âu và Bắc Mỹ.
Những nỗ lực của chúng ta nhằm sở đắc mọi cái trong trật tự,
trục xuất chủ nghĩa cực đoan đồng thời dẫn đạo cuộc sống an nhàn bên trong một
xã hội được cấu trúc trên những nguyên tắc của lý trí, ngay từ lúc mới khởi sự,
đã có khả năng sụp đổ. Dường như mọi nỗ lực sốt sắng xây dựng xã hội một cách
lý trí, ở một điểm nào đó, chúng đã đi quá, và như thể theo định luật tự nhiên,
trở thành bạo động phi lý trí. Lúc này, có thể chúng ta đang chứng kiến cái bắt
đầu của một sự kiệt sức không thể đảo ngược của thể chế dân chủ tự do. Trong
quá trình thay thế cái hệ thống cũ và khó thắng ấy, đang hiện hữu một hình thức
mị dân toàn trị. Nó xuất hiện như một biểu lộ ý chí đại chúng của nhân dân, những
kẻ không cho rằng mình là kẻ thù của truyền thống chính trị Mỹ, mà trái lại,
còn ao ước phục hồi sự vĩ đại của Mỹ. Nó là một phong trào từ khước một cách
hân hoan những sự kiện cùng những luận cứ, để thiên về cảm xúc, sự đồng dạng bầy
đoàn đầy đam mê và khía cạnh kích dục của bạo động.
Người ta ngần ngại không dám công nhận có sự chân thật nhất
định nơi thị kiến của những kẻ đang tìm thấy tính đáng mong ước trong tự thân
những bùng nổ chính trị táo bạo, một sự chân thật đang vuột mất nơi những kẻ rất
thích sử dụng bạo lực làm công cụ để khiến cho xảy đến – dù không thể nào – một
tương lai thái bình và an nhàn được xây dựng trên những nguyên lý của lý trí.
Mishra cho thấy điều ấy được minh họa rõ nét nhất trong sự bất đồng ý kiến đầy
cay đắng vào thập niên 1760 giữa Rousseau và Voltaire [1694–1778] về cách tiến
hành tốt nhất, dành cho các dân tộc ở Đông Âu.
Voltaire đã làm cho mình giàu có hơn khi ông như một triều
thần được nữ hoàng Catherine Vĩ đại [1729–96] ưu ái. Với sự tiếp tay của ông,
nước Nga trở thành một cực đầy uy tín của phong trào Khai sáng, một trung tâm học
hỏi và văn hóa. Nhưng nước Nga làm điều đó theo cung cách như nhất từ trên xuống
dưới với sự che chở của đấng quốc chủ. Có thể Rousseau xem cái được nữ hoàng
Catherine thành tựu là cái về sau bị nhà văn hóa và sử gia René Girard
[1923–2015] gọi là “sự bắt chước đúng và chính xác”. Phong trào Khai sáng của
Nga phần lớn là hình thức, một kiểu cách nhập cảng, và toàn bộ là sự thịnh nộ
trong giới quí tộc của xứ sở đó, những kẻ đặt căn bản kinh tế của họ trên chế độ
nông nô.
Điều đó chẳng chút nào kềm hãm thiện cảm của Voltaire dành
cho các nỗ lực của Catherine. Quả thật ông tin rằng bà cần phải làm cho phong
trào Khai sáng lan rộng hơn nữa, bằng sức mạnh, và ông cổ vũ nữ hoàng ấy “dạy
cho phong trào Khai sáng Châu Âu trong khi chĩa mũi súng vào người Ba Lan và
người Thổ Nhĩ Kỳ.” Đối với Rousseau, tiếp cận ấy sai lầm và vô ích. Trong The
Social Contract (Khế ước xã hội – 1762) ông qui trách nhiệm cho một trong những
người tiền nhiệm của Catherine, đó là Peter Đại đế [1672–1725], kẻ đã “ao ước sản
xuất ngay lập tức người Đức hoặc thời Khai sáng khi ông nên bắt đầu bằng việc
làm ra người Nga; ông đã cản trở thần dân không bao giờ trở thành cái mà họ có
thể là, bằng cách thuyết phục rằng họ là cái mà họ phải là.”
Mishra gọi điều đó là “sự tự phân chia đầy đau đớn” của sa
hoàng ấy; nó đủ tệ khi bị đấng quốc chủ áp đặt lên chính đất nước của ông; còn
khi nó bị áp đặt bởi kẻ bên ngoài, thông qua chủ nghĩa đế quốc, thì phản ứng
thích hợp duy nhất là sự kháng cự. Như Rousseau đã viết, nếu người Ba Lan “thấy
rằng không bao giờ có người Ba Lan trở thành người Nga, tôi bảo đảm rằng Nga sẽ
không bao giờ chinh phục Ba Lan.” Bản sắc văn hóa riêng biệt luôn luôn là một
rào cản chống lại sự khống chế ngoại lai, và không bao giờ có thể bị bẻ gảy.
Bất đồng của Voltaire và Rouuseau “về ý nghĩa của cái hiện đại
dành cho các dân tộc chậm tiến ở Đông [Châu Âu]” theo Mishra, “có các hàm ý sâu
xa nhất.” Voltaire đã viết văn bản nguyên gốc (urtext) cho người tân bảo thủ,
những kẻ âm mưu xâm lăng Iraq năm 2003 và cố sức xuất cảng thể chế dân chủ tự
do Tây phương; Rousseau thấy trước các chiến binh thánh chiến Islam, những kẻ
giành quyền kiểm soát giữa sự hỗn độn do cuộc xâm lăng thất bại ấy để lại. Ai
đúng? Mishra với phạm vi nghiên cứu rộng rãi, đã làm rõ ra rằng thật vô lý tới
nực cười khi chọn ra ai đúng ai sai ở đây. Hễ khi nào chủ nghĩa phổ quát của
Voltaire được áp dụng, thì nó là một sức mạnh mù lòa và hủy diệt. Sự kháng cự của
Rousseau từ bên dưới, một cách tối hậu, sẽ luôn luôn tối tăm thêm lên, nếu nó
không bắt đầu diễn ra theo cách đó.
oOo
Điều này có sẵn chứng cứ ngay trong giai đoạn đầu của thời
Khai sáng ở Đức. Khi Herder kêu gọi đồng bào mình hãy nôn chất nhờn của sông
Seine ra, thì các bộ ngực Đức phồng lên kiêu hãnh. Trong thơ của người kế tục
Herder, thi sĩ Ernst Moritz Arndt [1769–1860], sự từ khước chủ nghĩa phổ quát
Pháp bắt đầu với âm thanh nghe như tiếng trống trận: “Hãy để sự oán hận (mang
tính Pháp: resentiment) này cháy âm ỉ như tôn giáo của công dân Đức, như thần
chú thiêng liêng trong mọi con tim, và hãy để nó bảo tồn chúng ta trong sự
trung tín, chân thật và dũng cảm của chúng ta.” Trong Heinrich von Treitschke
[1834–96], viết thời Đệ nhị Đế chế Đức của Bismarch vào thập niên 1870, chúng
ta nhìn thấy rõ ràng một yếu tố sâu xa hơn, trong giai điệu tiếng tiêu dẫn nhập
và vượt lên trên tiếng trống trận. Treitschke phàn nàn rằng Heinrich Heine
[1797–1856], thi sĩ vĩ đại Đức gốc Do Thái “không bao giờ viết tiêu ca”. Ông
nói, “Heine có “linh hồn/tinh thần – esprit”, cái mà lúc này không cách gì là
Geist (linh hồn/tinh thần – spirit) trong ý nghĩa Đức.” Bản thân Heine hiểu rõ
sự nối kết giữa tinh thần đang trỗi lên của chủ nghĩa đặc thù dân tộc Đức
(German national particularism) ở mặt này, và sự oán ghét người Do Thái ở mặt
kia. Ông viết: “Những kẻ tận hiến mang tính Pháp (the French-devourers) thích
sau đó nuốt người Do Thái để làm món tráng miệng ngon lành.” Mishra diễn đạt điều
đó một cách bộc trực hơn: “Mặt bên kia của chứng sợ Pháp là bài Do Thái.” Chủ
nghĩa dân tộc mềm (soft nationalism), sự phòng vệ của đặc thù chống lại sự xâm
lấn của phổ quát, luôn luôn có nguy cơ đi quá, trở thành chủ nghĩa dân tộc cứng
(hard nationalism), tẩy rửa chủng tộc, bách hại (sách nhiễu) và diệt chủng.
Tại Đức, nó đã đi quá. Chúng ta biết điều đó. Heine cũng biết
điều đó. Ông viết năm 1834 rằng “Một vở kịch được trình diễn tại Đức sẽ khiến
cho cuộc Cách mạng Pháp trông giống cảnh điền viên hồn nhiên.” Lời tiên trí ấy
thành sự thật với sự bùng nổ Thế chiến Thứ nhất, cái mà nhà trí thức hiếu chiến
Ernst Jünger [1895–1998] gọi là “lò rèn trong đó thế giới sẽ được gò thành những
cộng đồng mới cùng những giới hạn mới.” Nietzsche đưa lời tiên tri tương tự dù
ông nói với số nhiều: “Sẽ có những cuộc chiến tranh như thể chưa bao giờ thấy
trước đây trên trần thế.”
Kể từ khi thế giới bị tái rèn gò bởi trận thế chiến nhằm chấm
dứt mọi cuộc chiến tranh ấy cho tới nay đã một trăm năm. Nhưng rồi vẫn xảy ra một
trận thế chiến khác, lớn lao hơn gấp bội, và thế giới lại được tái rèn gò thêm
lần nữa. Những giới hạn mới và những cộng đồng mới đã gắn kết với nhau trong một
thời gian, nhưng giờ đây, có vẻ lời tiên tri của Nietzsche lại khả thi hơn bao
giờ. Lúc này, tôi đang nhìn ra ngoài, qua cửa sổ của mình ở Leipzig tới đài tưởng
niệm sức mạnh của công nhân, đang rạn nứt. Tôi chẳng có cảm giác gì ngoài nỗi
khiếp hãi, khi tính phi lý trí, sự oán hận (resentiment) cùng cơn thịnh nộ đang
bao phủ toàn bộ trần thế bị nguyền rủa này./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét