Bài ca "Kẻ Ở Miền Xa" của Trúc Phương, ghi trong Tuyển Tập Đặc Biệt Mưa Bụi 2.
Chính phủ của các quốc gia có quyền kiểm duyệt các tác phẩm
lưu hành và xuất bản. Như vậy thì khó bác bỏ việc Việt Nam có luật lệ cấm hay
cho phép tác phẩm được phổ biến. Dư luận gần đây có nhiều tranh cãi về hành động
của Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn cho, rồi rút, rồi lại cho phép lưu hành 5 ca khúc
của thời gọi là "Sài Gòn tạm chiếm." Vấn đề chính là cách thẩm định nhạc không rõ ràng và nhất
quán của cơ quan kiểm duyệt.
Kết quả là một hệ thống kiểm duyệt có vẻ tùy tiện, song nhiều yếu tố trong quá khứ đã góp phần làm nên chế độ kiểm duyệt ở Việt Nam.
Công việc kiểm duyệt các tác phẩm là sự thừa kế của chế độ
thực dân Pháp. Thực ra Pháp đã xây nên hệ thống truyền thông cho xứ Việt, họ kiểm
soát hệ thống ấy cũng là đương nhiên. Luật pháp kiểm duyệt đối với quốc dân
Pháp ở thuộc địa cũng thoải mái, tuy nhiên đối với người bản xứ quá chặt chẽ. Một
tờ báo hay quyển sách viết bằng tiếng Pháp được in tự do hơn một tác phẩm quốc
ngữ.
Nhưng nếu tác phẩm nào bằng tiếng Việt không chạm trực tiếp
đến chính trị thì chắc cơ chế quản lý của Pháp cho phép lưu hành. Thí dụ trong
những năm đầu 1940 có những bài ca ái quốc "thanh niên lịch sử" của
nhóm Lưu Hữu Phước được Tổng hội Sinh viên của Trường Đại học Hà Nội được xuất
bản.
Nước Pháp có toàn quyền ở Đông Dương, như thế thời thực dân
các tác phẩm xuất bản không có thông tin về giấy phép. Đến năm 1946, Việt Nam độc
lập bắt đầu thấy chữ "kiểm duyệt" (ghi tắt là k.d.) trên bìa sau của
bản nhạc.
Thời kháng chiến chống Pháp, âm nhạc không được in ấn nhiều
về số lượng và nếu được in là in thạch tại địa phương. Như vậy âm nhạc chủ yếu
được phổ biến theo cách truyền miệng.
Lúc bấy giờ kiểm duyệt có nghĩa là tự kiềm chế mình trong
hoàn cảnh của đời sống mới xã hội chủ nghĩa xây dựng con người mới. Một bài báo
Văn Nghệ năm 1950 nhấn mạng rằng "nhạc sĩ phải gạt bỏ đầu óc cá nhân, lao
mình vào đời sống của đại chúng, phải kiểm điểm lại tư tưởng, để gột tẩy sạch
những tàn tích lãng mạn còn rơi rớt trong mỗi người."
Đa số các nhạc sĩ sáng tác vốn là dân thành phố có tính tiểu
từ sản. Nếu xâm nhập vào thực tế cuộc sống của người nông dân nghèo họ sẽ nhận
ra sự phù phiếm của đời sống cũ.
Những năm kháng chiến chưa có danh sách cấm-cho. Chính quyền
Việt Nam mong rằng mỗi người sẽ vui lòng quay lưng với quá khứ chưa nghiêm túc
của mình và tuân theo chính sách văn nghệ của chính quyền. Một thí dụ là lãnh đạo
văn nghệ khuyên nhạc sĩ Phạm Duy phải "khai tử" bài hát "Bên cầu
biên giới."
Để sống và thành công với kháng chiến thì các nhạc sĩ phải
làm như vậy thôi. Nhưng Phạm Duy và một số nhạc sĩ khác bỏ về thành. Nhạc sĩ
Tô Hải ở lại và kể về "các lớp 'chỉnh huấn'" là chỗ mà các tác giả bị
bắt phải "kiểm điểm, phê bình và tự phê bình" chính mình và các tác
phẩm của mình. Để tồn tại, ông phải cho rằng những tác phẩm trước của ông là
"đồi trụy, tư sản, tiểu sư sản, thậm chí phản động."
Thuở đó các vùng dưới quyền kiểm soát Pháp như các thành phố
Hà Nội, Huế và Sài Gòn đều có nhà xuất bản âm nhạc. Các ấn phẩm được in với hai
chữ "k.d." với con số và ngày chứng minh rằng bài ca này được cấp
phép lưu hành.
Một điều đương nhiên nữa là nhạc cách mạng không được xuất bản.
Dù vậy cũng đã có nhiều bài ca tình ca đem từ vùng kháng chiến được phép in và
rất phổ biến. Từ thời đó Việt Nam đã có hai thế giới âm nhạc hoàn toàn riêng biệt.
Khi đất nước Việt Nam bị chia cắt năm 1954 thì hai thế giới
âm nhạc mới ấy có biên giới xác định. Ở phía Bắc vĩ tuyến 17 không có chính
sách công khai cấm bài hát nào. Nhưng thực tế thì khác.
Tôi gặp một phụ nữ người Hà Nội hơn tám mươi tuổi kể rằng mẹ
của bà bắt bà đốt các tờ nhạc trước 1954 của bà. Đây là thời cải tạo tư sản khi
mà người giàu có bị nghi ngờ rồi vì vậy họ sợ dư luận và không dám cất giữ và
hát loại âm nhạc mà mình yêu thích.
Ở ngoài Bắc lúc bấy giờ các ấn phẩm không cần in chữ
"k.d." vì nhà nước có toàn quyền trên mọi phương tiện truyền thông.
Dù vậy cũng có những chuyện tế nhị trong giới âm nhạc.
Có một phong trào bài trừ "nhạc vàng" nghĩa là nhạc
tiểu tư sản, nhạc bị gọi là "ủy mị" vì thiếu tính chiến đấu. Những ca
khúc như "Tình ca" của Hoàng Việt, "Bài ca hy vọng" của Văn
Ký, "Tình ca người thủy thủ" của Hoàng Vân đều bị phê bình là quá trữ
tình. Với những nhà quản lý khắt khe thì khoảng cách từ trữ tình đến ủy mị có lẽ
cũng không xa lắm?
Nhưng có một vấn đề cấp bách hơn - đó chính là văn nghệ từ
bên kia vĩ tuyến.
Một bài đăng trên báo Nhân Dân với đầu đề "Văn nghệ lai
Mỹ, phản động và đồi bại" tỏ ra lo ngại về nhạc chiến tranh tâm lý từ bên
kia ranh giới. Các bài ca miền Nam bị gọi là "quá ủy mị, ướt át, muốn nằm
dài ra mà thở."
Bài báo này cũng khẳng định các bài hát miền Nam chỉ được viết
nhờ bảo trợ của Mỹ "tung tiền 'com-măng'." Theo tuyên truyền của miền
Bắc thì các bài hát này bị dân miền Nam tẩy chay.
Bài báo viết: "Hiện nay, đồng bào miền Nam càng căm
ghét thứ văn nghệ phản động, đồi bại theo kiểu Mỹ đang tràn ngập ở miền Nam bao
nhiêu, càng nhớ, càng yêu những bài thơ, câu hò, điệu múa trong thời kỳ kháng
chiến bấy nhiêu".
Thị trường âm nhạc sầm uất nổi lên cùng thời ở miền Nam phủ
nhận những lời xác nhận ấy.
Mặc dù những lời viết ở trên không phản ánh đúng sở thích âm
nhạc của dân bên kia vĩ tuyến, nhưng ở đằng sau nó biểu lộ một điệp khúc thường
xuyên của các quan chức văn hóa về ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai.
Đó là âm mưu phá hoại văn hóa và phong tục người Việt của nước
Mỹ. Văn hóa Mỹ theo họ chỉ toàn là găngxtơ, cao bồi, đĩ điếm, là như bệnh dịch
và người nào chạm vào nền văn hóa ấy sẽ bị lây bệnh. Các tác phẩm viết theo chế
độ "Mỹ-ngụy" miền Nam bị coi như nguy hiểm.
Với chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam các bài ca phải được
kiểm duyệt, và các tác phẩm Cộng sản thì bị cấm. Thời Ngô Đình Diệm có những ca
khúc bị coi như ướt át cũng không được lưu hành hay phải đổi lời ca.
Trong một bài phỏng vấn năm 1963, nhạc sĩ Minh Kỳ than vãn
nhạc lúc bấy giờ bị "bế tắc." "Chúng tôi mà nói đến yêu đương một
cách rõ ràng quá, hoặc lời lẽ có phần ướt át, thì cái kéo của ba Kiểm duyệt
không tha!"
Một điều tất nhiên nữa là các ca khúc về đề tài người lính
chiến được ưu tiên phổ biến trên các nguồn truyền thống của chính phủ. Như vậy
nhạc làm vai trò tất yếu là tuyên truyền, nhưng nhạc sĩ cùng thời cũng thừa nhận:
"tuyên truyền quá rõ dễ bị người nghe ít ưa."
Hai chế độ đều kiểm duyệt nhạc, nhưng cả hai bên đều không
thực hành được việc đó một cách trọn vẹn. Ở miền Bắc nhiều người nghe trộm đài
của Sài Gòn, BBC và VOA.
Phan Thắng Toán và Nguyễn Văn Lộc (tức Toán Xồm và Lộc Vàng)
và một số người nữa bị tù vì tổ chức những buổi hát nhạc vàng với nhau (tức nhạc
lãng mạn gọi theo lý thuyết của Mao Trạch Đông) và nhạc miền Nam, nhưng hành
động này chỉ phản ánh một phong trào bí mật mà không thể biết được có bao
nhiêu người nữa cũng như vậy.
Ở Hải Phòng và Hà Nội cùng thời cũng có nhiều thanh niên
thích nghe và chơi nhạc rock Mỹ với nhau.
Mặt khác là ở miền Nam cũng có nhiều người nghe trộm Đài Tiếng
Nói Việt Nam của Hà Nội. Cũng có những tác phẩm trái với quy định của nhà nước
và không được cấp phép nhưng vẫn được phổ biến.
Các ca khúc đòi hòa bình của Trịnh Công Sơn không được cấp
phép phổ biến. Mặc dù có lệnh cấm 33 vào ngày 2 tháng 8 năm 1969, các bài ca phản
chiến của ông vẫn được xuất bản và thu băng (không xin giấp phép).
Có nhóm sinh viên Đà Lạt muốn hát lại những ca khúc kháng
chiến chống Pháp vốn không được phép phổ biến ở miền Nam nhưng vẫn tự xuất bản
tập nhạc Năm Xưa.
Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn cũng thực hiện hai tập nhạc Hát
Cho Đồng Bào Tôi Nghe. Đây là nhạc đấu tranh, chống chiến tranh và chính phủ Việt
Nam Cộng Hòa. Một điều dĩ nhiên là các nhạc phẩm này không xin và không được cấp
phép lưu hành. Như vậy khi thực hiện tập nhạc này, nhóm sinh viên ghi là
"phổ biến nội bộ Sinh viên Học sinh."
Sau khi nước Việt Nam thống nhất thì gần như toàn thể các nhạc
phẩm tân nhạc của những nơi không nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa đều bị cấm luôn.
Điều đó nghĩa là nó bao gồm các tác phẩm có nguồn gốc nhạc mới
của Việt Nam của các tác giả như Đặng Thế Phong, Văn Cao, v.v. (mặc dù chưa
chính thức bị cấm), các tình ca thời kháng chiến chống Pháp, và tất cả các ca
khúc của thời Việt Nam Cộng Hòa, ngoài những ca khúc phong trào sinh viên đấu
tranh được nhắc đến ở trên.
Ngay sau những biến cố năm 1975 vẫn còn nhiều bản nhạc không
in thông tin kiểm duyệt. Nhưng từ đó cũng bắt đầu bản nhạc và tập nhạc với
thông tin kiểm duyệt gọi là "giấy phép xuất bản."
Chẳng hạn tập nhạc "Hát Từ Sài Gòn Giải Phóng" gồm ca khúc của
những sinh viên miền Nam tham gia phong trào đấu tranh phải in thông tin cấp
phép. Nhưng đến những năm 1990 vẫn có nhiều ấn phẩm nốt nhạc của các cơ quan
nhà nước xuất bản mà không đề cập đến giấy phép.
Từ năm 1975 ranh giới hệ thống kiểm duyệt nhạc Việt là
trên toàn bộ nước Việt hình chữ S. Nhưng người Việt tỵ nạn ở rải rác khắp năm
châu đã không còn chịu bất cứ sự kiểm duyệt nào.
Song người Việt ở lại miền Nam bị nghi ngờ rất nặng nề, nhất
là những người từng làm cho nhà nước và trong giới quân sự. Sách Bên Thắng
Cuộc của Huy Đức trích báo Sài Gòn Giải Phóng viết về cựu binh sĩ rằng: "Đế
quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành dã thú."
Những người sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa coi như bị
nước Mỹ tẩy não. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết trên báo Thừa Thiện Huế cuối năm
1975 là "tất cả hệ thống những 'phương tiện văn hóa' nhằm đạt đến một hiệu
quả tinh thần rất nguy hiểm: phổ biến tư tưởng phản động và gieo rắc nọc độc đồi
trụy của bọn đế quốc và giai cấp tư sản."
Như vậy tất cả các tác phẩm nghệ thuật đều bị cấm, tịch
thu, thậm chí tiêu hủy. Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, chủ nhiệm Nhà xuất bản Tinh Hoa
Miền Nam, kể cho tôi rằng tất cả hàng hóa của tiệm bị lấy đi hết. Nhưng mặt
khác, lúc đó cũng có nhiều người lính miền Bắc đã cứu các văn hóa phẩm nguy hiểm
của thị trường miền Nam và mang ra miền Bắc.
Thứ nào bị cấm thì trốn tránh trong bóng tối. Nhiều người bí
mật giữ lại các bản nhạc và đĩa hát. Các quân nhân và công chức của chế độ cũ
bị giam cũng lưu giữ âm nhạc trong trí nhớ không cải tạo của họ. Bị tách riêng,
các tù nhân sống ở môi trường khác với đa số đồng bào họ. Họ hát và dạy các bài
ca cấm cho người bảo vệ ở trại. Một số người bị giam cũng sáng tác bài hát mới
để tâm sự với nhau.
Báo giới Việt Nam chê trách các "ấn phẩm đen" đang
phổ biến. Tức là các tác phẩm chép tay, in rô-nê-o ngoài phạm vi của cơ chế kiểm
duyệt.
Về việc xét lại các ca khúc xưa thì dân đi trước nhà nước. Từ
năm 1986, Câu Lạc Bộ Âm Nhạc của Hội Liên Hiệp Thanh Niên ở Sài Gòn và Cung Thiếu
Nhi ở Hà Nội từng giới thiệu các tác phẩm được gọi là nhạc tiền chiến, nghĩa là
nhạc lãng mạn của những năm đầu tiên của nền tân nhạc.
Ngày 15 tháng 10 năm 1989, Cục Âm Nhạc Và Múa mới bắt đầu cấp
phép cho các bài hát trước 1975 được phổ biến. Trong đợt đầu tiên này có các
tác phẩm xưa của Văn Cao, Đặng Thế Phong, Hoàng Quý, Nguyễn Xuân Khoát, Đoàn
Chuẩn, v.v.
Phải đợi hai năm nữa, ngày 10 tháng 8 năm 1991, thì mới có một
số tác phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa của các tác giả Thanh Sơn, Y Vân, Trần Thiện
Thanh, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Hoàng Trọng, Minh Kỳ, v.v. được cấp phép phổ
biến.
Mãi đến 16 tháng 1 năm 2003 một số bài ca của nhạc sĩ Việt ở
hải ngoại được cấp phép lưu hành ở Việt Nam. Một số tác giả phải đợi lâu hơn -
nhạc Phạm Duy mới bắt đầu được cấp phép hồi năm 2005, nhạc Lam Phương năm 2007
và nhạc Hoàng Thi Thơ năm 2008.
Mặc dù như vậy, Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn vẫn duyệt các nhạc
phẩm của thời Việt Nam Cộng Hòa và của cộng đồng người Việt hải ngoại. Vấn đề
là ở nội dung bài hát tùy thuộc các tác phẩm của miền Nam trước 1975 mà quần
chúng ưa nghe nếu không chửi bới và không nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Hình như trở ngại chính nằm ở hai chữ thôi. "Lính chiến"
là cặp chữ cấm kỵ bị coi như đại diện cho những người lính của chế độ miền Nam
bị coi như "lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ."
Cuộc chiến Việt-Mỹ đã xưa rồi, quan hệ ngoại giao hiện nay
thành bình thường và hai nước có quan hệ hữu nghị. Song "lính chiến"
của ngày xưa vẫn chưa được coi như bạn hữu chăng?
Một trong những bài hát từng bị tạm cấm lưu hành là
"Cánh thiệp đầu xuân" của Minh Kỳ và Lê Dinh sáng tác năm 1962 trong
thời Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Bài hát ấy cũng ra đời trong hoàn cảnh kiểm duyệt
của thời chiến tranh.
Như được nhắc ở trên, chế độ kiểm duyệt thời Ngô Đình Diệm
không cho hai tác giả Việt có các bài ca hoàn toàn như ý của họ. Hiện nay nhạc
sĩ Lê Dinh cho thay thế lời "anh lính chiến" bằng "anh yêu dấu."
Như thế lời ca mới này chỉ có nội dung tình yêu và nhớ nhung.
Bài ca "Rừng xưa"của Lam Phương sáng tác năm 1963
cũng được cho hát lại. Nhìn về lịch sử bài hát này thì dễ hiểu tại sao bài ca
này từng bị cấm. Bài này không phải là một bài ca xuất sắc của tác giả và hai
câu lời ca trong bài nghe cũng rất bình thường: "Đây ước mơ của miền Nam mến
yêu. Tha thiết đến tin anh về bên mái gia đình tìm hạnh phúc ngày qua."
Hoàn cảnh lịch sử cho biết đây là người ở miền Nam thời chiến
xin người tình đã tập kết ra Bắc về quê sống với gia đình và bỏ rơi cuộc
kháng chiến.
Nhưng ngày hôm nay, hơn 50 năm sau, ai còn bận tâm đến
chuyện chiêu hồi? Nếu cứ cấp phép thì chắc ít ai nhắc đến bài ca "Rừng xưa"
vì bài ca không hợp hoàn cảnh đời sống người nghe hiện nay như nhiều ca khúc
khác.
Phải chăng, các nhà quản lý cố nhắm mắt không nhận rằng hiện
nay không còn như thời bao cấp khi Việt Nam chưa toàn cầu hóa? Từ khi có khả
năng thu lại nhạc với các phương tiện như máy ghi âm và máy vi tính thì các nhạc
phẩm bị cấm được lưu hành rất dễ dàng ở chợ đen. Hiện nay làm sao mà cấm nổi nhạc
khi mà bất cứ ai cũng có thể lên mạng, có thể nghe bất cứ loại nhạc nào vào bất
cứ lúc nào?
Dù thế chăng nữa, hình như thể loại nhạc đáng lo nhất vẫn là
nhạc bolero Việt Nam. Bolero Việt là một khối âm nhạc lớn đã hơn 60 năm chinh
phục được nhiều người Việt yêu nhạc. Suốt thời gian này, dù bị chê, dù bị cấm,
nó không chết và trong khoảng mười năm qua được khôi phục nhiều.
Có phải khối nhạc này làm hại cho sự tiến triển của nhạc Việt
hay làm cho trình độ nhạc bị hạ thấp? Tôi không nghĩ vậy. Nhất là vì trong thời
gian này dư luận kết án các loại nhạc trẻ "gây sốc" hay "nhạc
rác."
Có nhạc sĩ lý luận rằng "những ca khúc thế này ['nhạc
rác'] đã kéo gu thẩm mỹ âm nhạc của khán giả ngày càng đi xuống." Bolero,
một thời bị coi như "nhạc sến", nếu xem xét thì lại có nội dung lành
mạnh và lịch thiệp. Nguồn nhạc này nghe rất xứng đáng và đáng quý so với nhạc
thị trường hiện nay. Nhưng đại đa số ca khúc bolero còn bị cấm.
Thực ra việc người Việt nghe và hát một bài ca bolero nhắc đến
người lính chiến là chuyện bình thường đang xảy ra trên khắp nước Việt từ sáng
đến khuya. Kiểm duyệt việc ấy chỉ có kết quả là hạn chế việc biểu diễn các ca
khúc ấy trên sân khấu hay trên làn sóng chính thức. Cấm, cho phép, cấm lại, và
lại cho phép các nghệ sĩ hát những bài ca này chỉ làm cho dân nghĩ rằng các cơ
quản kiểm duyệt làm việc một cách tùy tiện.
Nhưng việc cấm-cho phép đã có hiệu quả. Nếu cứ hát nhạc cấm
có thể nhiều lần mà không bị làm sao, nhưng sẽ đến một lúc người hát sẽ bị phạt
nặng để làm bài học cho tất cả mọi người khác. Tuy nhiên kết quả không phải là
cấm nhạc ấy, hay làm giảm sự ưa chuộng của thính giả đối với nhạc ấy, mà là làm
cho các nghệ sĩ và nhà tổ chức phải cẩn thận để tự kiểm duyệt mình và tự hạn chế
sức sáng tạo của mình.
A
Theo tôi biết thì người Việt Nam sống theo phương châm độc
lập, tự do, và hạnh phúc. Quyền nghe được nhạc mình ưa thích nằm ở trong ba điều
lý tưởng ấy?
Thời chiến tranh thì việc cấm và hạn chế âm nhạc là rất hợp
lý. Cấm những tác phẩm quá thô tục và gây loạn cũng có lý. Việc cấm các bài ca
chỉ vì lý lịch đen thì tôi nghĩ là không nên. Nhưng điều đó là chuyện người
dân và nhà nước Việt Nam phải giải quyết với nhau.
*
Ông Jason Gibbs có bằng tiến sĩ về Lý thuyết và Sáng tác âm
nhạc từ Đại học Pittsburgh, chuyên nghiên cứu âm nhạc Việt Nam. Bài viết gửi
BBC được ông viết trực tiếp bằng tiếng Việt, trong loạt bài về các gương mặt nhạc
sĩ Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét