42 năm trôi qua từ biến cố 30 tháng 4 năm 1975, đề tài hòa hợp, hòa giải luôn được nhắc đến trong những bài viết, bài nói chuyện của một số cán bộ cao cấp trong đảng CSVN khi đề cập về cái gọi là “ngày thống nhất đất nước”. Nói cách khác, chiến tranh đã lùi vào quá khứ hơn 40 năm mà đề tài hòa hợp vẫn được phe Bên thắng cuộc tiếp tục kêu gào tha thiết, đượm mùi trình diễn trên sân khấu.
Trong dịp 30 tháng 4 năm nay, trên báo Giáo Dục Việt Nam, ông Vũ Ngọc
Hoàng, người được biết đến là nguyên Phó ban tuyên giáo Trung ương lại
đề cập đến vấn đề này bằng những luận điệu dông dài, đôi khi văn hoa
nhưng rỗng tuếch. Ông Hoàng cho rằng đến nay sau 42 năm gọi là thống
nhất, nhưng thật ra vẫn chưa có hòa hợp và thống nhất dân tộc “như một
khối bền chặt” thật sự như đảng CSVN mong muốn.
Là người từng cầm cân nẩy mực chỉ đạo trong lĩnh vực tư tưởng, ông
Hoàng không thể nào nói sai ý đảng CSVN. Theo ông Hoàng, chủ trương hòa
hợp là chủ trương lớn của lãnh đạo đương thời, chứng tỏ họ là nhưng
người có tầm nhìn sáng suốt. Nhưng rất tiếc chủ trương đúng đắn đó không
thực hiện được là vì sau 42 năm vẫn còn một bộ phận lớn của dân tộc lại
từ chối thắng lợi rất vinh quang của đảng trong ngày 30 tháng 4. Tức là
theo ông Vũ Ngọc Hoàng, tuy đất nước thống nhất trong hòa bình nhưng
chưa có hòa hợp và thống nhất thật sự vì đã có “một bộ phận lớn” người
không đồng ý sự chiến thắng đó.
Đây là một nhận định đúng nhưng thử hỏi vì sao lại có “một bộ phận
lớn” đó. Quan trọng hơn nữa vấn đề hòa giải dân tộc phải thực hiện ra
sao? Ta hãy nghe ông Vũ Ngọc Hoàng hiến kế theo quan điểm của một cán bộ
tuyên giáo đã về hưu.
Theo ông, để thực hiện hòa hợp, thống nhất và đại đoàn kết toàn dân
tộc, phải có tinh thần cởi mở, khoan dung, có hiểu biết sâu sắc về sự đa
dạng văn hóa và tự do tư tưởng cần thiết cho đời sống xã hội như sự đa
dạng sinh học cần cho thế giới tự nhiên. Thêm nữa nếu làm mất đi tính đa
dạng ấy thì xã hội và thế giới tự nhiên sẽ nghèo nàn, thiếu sức sống,
hạn chế khả năng sáng tạo, mất đi sức đề kháng.
Chỉ trong một đoạn ngắn, ông Hoàng đã nhồi nhét quá nhiều điều cao
thâm nhưng viễn vông, tưởng chừng không liên quan gì đến vấn đề ông định
mang ra chỉ giáo thiên hạ. Trước hết thử hỏi tinh thần cởi mở và khoan
dung ấy nằm ở vị trí nào trong những người cầm quyền cộng sản? Trong khi
thực tế cho thấy sau năm 1975, thay vì cởi mở và khoan dung chế độ đã
lập tức siết chặt bàn tay sắt của chuyên chính vô sản qua nhiều đợt “cải
tạo tư sản mại bản” trong mưu đồ cướp bóc tài sản người dân. Tinh thần
“tư sản dân tộc” không thấy đâu mà chính sách của đảng và nhà nước lúc
đó chỉ nhằm phá nát những nền tảng kinh tế thị trường của Miền Nam để dễ
dàng áp đặt kinh tế chỉ huy mà họ cho là ưu việt hơn.
Thứ hai, cái mà ông Vũ Ngọc Hoàng nói là chủ trương xóa bỏ hận thù,
thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc của đảng sau năm 1975 lại không nằm
trong hàng ngàn trại giam trá hình là “trại cải tạo” từ Nam chí Bắc. Ở
đó “chính sách 12 điểm” của chính phủ chết non Huỳnh Tấn Phát không làm
gì hơn là chấp nhận sự giam giữ lâu dài hàng chục ngàn người cùng mang
chung tội danh “ngụy quân, ngụy quyền”, còn gia đình họ bị buộc phải đi
“xây dựng kinh tế mới”, một nghĩa vụ cao đẹp không thể từ chối vì từ
chối là không yêu nước. Đó là những nguyên nhân cắt nghĩa cho lời nói
của ông Hoàng trong bài viết của mình vì sao “vẫn còn một bộ phận lớn
của dân tộc lại từ chối thắng lợi ngày 30/4 của đảng.”
Thiết tưởng đảng CSVN là người phải chịu hoàn toàn trách nhiệm cho
những tội ác mà họ đã cố tình gây ra sau năm 1975. Chính họ chứ không
phải ai khác phải nhìn thấy vì sao người dân quay lưng và tìm ra câu trả
lời thay vì cứ rao giảng hòa hợp hòa giải như một sự lừa bịp kéo dài.
Năm 2004, Nghị quyết 36 ra đời là một cố gắng mà đảng tự ca tụng là
“vượt bậc” nhằm chiêu dụ có bài bản những “khúc ruột ngàn dặm” trong bản
tình ca hòa giải dân tộc. Đảng không ngại tốn tiền dàn dựng, tô son
trét phấn cho cái Nghị quyết 36 này và nhiều lần mang đi trình diễn ở
hải ngoại. Nhưng thành thật mà nói trong hơn 10 năm qua nó cũng chẳng
mang lại kết quả nào đáng hãnh diện, ngoài sự phá hoại và làm ruỗng nát
các cộng đồng hải ngoại bằng những trò chụp mũ của một số “dư luận viên
chống cộng” do chế độ đào tạo. Vì lẽ khi đảng đã nhiều lần ném niềm tin
của người dân vào sọt rác, sự hòa giải với chính quyền cộng sản không
khác tự nhốt mình trong… chiếc lồng son của đảng.
Riêng với người dân trong nước, đảng cũng chưa hề thể hiện những gì
gọi là vị tha, nhân ái, bao dung. Mà chỉ thấy bạo lực, thù hận từ phía
chế độ vây chặt lấy những thành phần yêu nước hay khác quan điểm với
đảng. Lúc nào đảng cũng sẵn sàng đem nhãn hiệu “thế lực thù địch” dán
lên mặt những người mà họ cảm thấy nguy hiểm cho sự cai trị độc quyền
của mình. Hơn thế nữa, chế độ chưa hòa giải được với nhân dân của mình
thì làm sao chiêu dụ được người bên ngoài? Gần đây chủ trương lớn của
đảng trở thành chủ trương bí nên cho côn đồ liên tục đánh đập tàn bạo
những công dân là phụ nữ yêu nước. Đó phải chăng là cách hòa giải đầy
lòng vị tha, nhân ái mà ông Hoàng cần có? Sử dụng bạo lực với người dân
để bảo vệ chế độ sẽ mang lại kết quả dễ dàng nhưng lại là phương pháp
làm chế độ sụp đổ nhanh chóng nhất.
Tiếc thay Tiến sĩ đảng Vũ Ngọc Hoàng chỉ đứng trong cương vị một cán
bộ tuyên giáo để nhận định và đưa ra phương pháp giải quyết với lời lẽ
chung chung, ba phải theo kiểu bắt bướm hái hoa. Chính những cái chung
chung, ba phải này lại làm cho mọi nỗ lực thực sự để hòa hợp dân tộc
càng dễ dàng thất bại. Quả thật nếu làm theo sự hiến kế của ông Hoàng
thì sẽ không bao giờ có được sự hòa giải như mong muốn của mọi người. Vì
ông chỉ như một cái máy cũ phát ra những sáo ngữ trong manh áo tuyên
truyền đã rách nát. Trong 42 năm qua đảng CSVN đã dùng những lời lẽ mỹ
miều này để tuyên truyền và họa hoằn mới dụ dỗ được vài kẻ nhẹ dạ mong
kiếm chút lợi lộc nào đó.
Muốn thật sự hòa hợp và thống nhất dân tộc trong hoàn cảnh
đất nước hiện nay, những người đang cầm quyền phải thành thật biết lắng
nghe và biết tôn trọng ý kiến của người dân. Một tiến trình dân chủ hóa
đất nước phải được đặt ra và nhất là phải thể hiện bằng những hành động
cụ thể. Những người cầm quyền không thể ngồi trên cao hay cố thủ trong
lâu đài chuyên chính vô sản, chìa bàn tay hòa giải ra với những lời lẽ
sáo rỗng dành cho kẻ dưới.
Việt Nam phải có dân chủ, trước hết là phải có cuộc trưng cầu dân ý
tự do để qua đó người dân đưa ra sự chọn lựa của chính mình mà không có
sự áp đặt nào. Ngày nào mà tự do không có và người dân không được làm
hay nghĩ theo cách riêng của mình thì mọi chủ trương hòa hợp và thống
nhất đều chỉ là ngụy biện mà thôi. Cho nên cái giá mà chế độ phải trả
luôn luôn là sự thờ ơ của các thành phần dân tộc trước những lời kêu gọi
từ phía đảng Cộng sản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét