Mọi chế độ tràn ngập tham nhũng chính là dấu hiệu của cả một quốc gia đang dần dần trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" của một quốc gia khác. Mọi xã hội có chế độ độc tài thì xã hội đó bị suy yếu và mất sức đề kháng. Việt Nam đã không còn sức để kháng Trung Cộng được nữa và sẽ trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" của Trung Cộng. Niềm hy vọng duy nhất cho sức để kháng Trung Cộng của Việt Nam bây giờ chính là tinh thần dân tộc dân quyền của công dân Việt Nam Cộng Hòa ở trong nước lan ra tới hải ngoại. Ngày nào còn chê bai, dị biệt, xa lánh tình thần Việt Nam Cộng Hòa là ngày đó, Việt Nam vẫn còn là nạn nhân của Trung Cộng trên mọi lãnh vực từ kinh tế chính trị đến an sinh xã hội, là nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" do Bắc Kinh tiến hành.
*
A. Lời mở:
Giới phân tích về tinh hình Việt Nam hết sức ngạc nhiên khi vào ngày 30
tháng Chín năm 2015, ông Hà Huy Hoàng, một phóng viên làm việc cho tờ
báo Thế Giới do bộ Ngoại Giao của Việt Cộng làm chủ quản, đã bị kết án
sáu năm tù về tội làm gián điệp cho Trung Cộng (1)
Việt Cộng đã lật đật gỡ xuống hết các bài báo trên mạng về vụ việc ông
Hà Huy Hoàng nhưng theo tường trình của các hãng thông tấn gần xa bên
ngoài Việt Nam có thể dò tìm trên mạng nhờ vượt tường lửa hay liên kết
link ((2) & (3)), chúng ta biết ông Hoàng được cho là có dan díu với
một nữ phóng viên làm việc cho ban tuyên giáo của Trung Cộng có tên là
Nhạc Xuân. Ông Hoàng quen biết được Nhạc Xuân cũng nhờ sự giới thiệu
thông qua một phóng viên Trung Cộng khác làm việc tại Việt Nam có tên là
Tôn Vân Quế. Ông Hoàng cũng bị cáo buộc đã sáu lần sang Nam Ninh Trung
Cộng từ năm 2009 đến năm 2011, gặp gỡ "cảm tình" với Nhạc Xuân để rồi từ
đó, nhiều tin tức bí mật được tiết lộ. Ba điểm mấu chốt của các tin tức
mà ông Hoàng tiết lộ cho Trung Cộng có thể tóm tắt như sau:
Điểm một: Kế hoạch của Việt Cộng đối với các cảng biển quan trọng của Việt Nam vào năm 2020.
Điểm hai: Tin tức ai giật dây bạo động mạnh chống người Trung Quốc tại Bình Dương.
Điểm ba: Thông tin đời tư của giới chóp bu Việt Công.
Nghiên cứu kỹ tầm quan trọng của ba điểm trên, mọi người dễ dàng thấy rõ như sau:
Về điểm một - vấn đề tiết lộ kế hoạch các cảng biển quan trọng chiến lược của Việt Nam vào năm 2020:
Rõ ràng thông tin này cho thấy Việt Cộng đang giấu kín tối đa chủ trương
quốc phòng của mình đối với cảng Cam Ranh. Cam Ranh chính là ẩn số mà
Trung Cộng muốn dò tìm từ lâu. Năm 2012, bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ là
Panetta khẳng định điểm mấu chốt của sự tiến triển quan hệ quốc phòng
Việt-Mỹ là quyền sử dụng cảng Cam Ranh dành cho Hải Quân Hoa Kỳ. "Và
tương lai này sẽ không xa", ông Pannetta còn khẳng định thêm ((4),(5)).
Từ đó đến nay và sau này, tổng thống Hoa Kỳ có thể khác nhưng chung
cuộc, xác suất Hoa Kỳ sẽ vào đóng quân tại Cam Ranh như ông bộ trưởng
Panetta tuyên bố là rất lớn, có khác chăng là Hoa Kỳ vào Cam Ranh như
thế nào, điều kiện tiền bạc trao đổi thuê mướn như thế nào. Dường như
Hoa Kỳ rất kiên nhẫn, đang chờ đợi nền kinh tế định hướng Xã Hội Chủ
Nghĩa của Việt Nam vỡ nợ hoàn toàn thì mới đưa ra bản hợp đồng thuê mướn
Cam Ranh để thuê được rẻ hơn và khi đó, Việt Cộng cũng hết đường lựa
chọn.
Về điểm hai-biểu tình đập phá bạo động chống người Trung Quốc tại Bình Dương:
Một cuộc biểu tình bạo động chống Trung Cộng, dù mức độ nguy hại có cao
nhưng nếu không do người ở trong Cộng đảng giật dây tổ chức thì việc gì
Việt Cộng phải lo sợ giấu nhẹm?
Xin được nhắc lại là cuộc biểu tình bạo động tại Bình Dương xảy ra vào
tháng Năm năm 2014 (6). Đây là một cuộc biểu tình chống Trung Cộng độc
nhất vô nhị tại Việt Nam trước giờ, với một lực lượng thanh niên trai
tráng đông đảo hùng mạnh, có tổ chức, đập phá và kích động có bài bản,
chuyên nghiệp, có vũ khí, không có tâm lý sợ hay lo lắng công an chính
quyền can thiệp gì cả, ngang nhiên chủ động tinh hình tại nơi biểu tình,
biến mất rất lẹ khi cần thiết. Rõ ràng lực lượng của cuộc biểu tình ở
Bình Dương không phải xuất thân từ phía người dân lành rất dễ đàn áp
như đã thấy qua bao nhiêu cuộc biểu tình trước giờ, kể cả cuộc tổng biểu
tình ngày 5 tháng 3 mới đây. Rõ ràng lực lượng biểu tình bạo động có tổ
chức tại Bình Dương là lực lượng phải từ quân đội hay lực lực lượng an
ninh cải trang làm dân thường tiến hành biểu tình kích động gây đập
phá.
Kẻ quyền uy nào ở trong Cộng đảng giật dây cuộc biểu tình ở Bình Dương
vào năm 2014 phải là kẻ có khả năng đảo chánh Việt Cộng bất cứ lúc nào
cũng được. Cho nên, tiết lộ thân phận kẻ quyền uy này dính líu đến cuộc
biểu tình là điều tuyệt đối không thể nào chấp nhận được.
Về điểm thứ ba-thông tin về đời tư của giới chóp bu Việt Cộng:
Đương nhiên, giới chóp bu trong chế độ Cộng đảng lừa dối độc tài phải
coi đây là tin tức rất nhạy cảm, nhất là các tin tức liên quan đến các
tài khoản của thân nhân em út giới chóp bu Cộng đảng. Cho nên tiết lộ
các tin tức này là điều không thể. Nếu ông Hoàng bị bắt vì tiết lộ những
thông tin này thì không có gì là lạ.
Thế nhưng, một nhân vật tép riu như ông Hoàng mà có thể biết được chi
tiết những tin tức tối mật liên quan đến cảng Cam Ranh, thân thế quyền
hành kẻ bí mật giật dây biểu tình chống Trung Cộng tại Bình Dương cũng
như chi tiết đời tư giới chóp bu để rồi tiết lộ cho Trung Cộng là một
điều không thể nào! Cho nên, việc Việt Cộng xử án thẳng tay sáu năm ông
Hoàng về tội gián điệp cho Trung Cộng là một hành động có tính dằn mặt
về mặt chính trị bên trong nội bộ Việt Cộng, cũng như dằn mặt về mặt
ngoại giao giữa "tình đồng chí Cộng Sản Việt Nam Trung Hoa" hơn là phòng
chống hoạt động gián điệp của Trung Cộng tại Việt Nam.
Ông Hoàng cùng lắm cũng chỉ là một người đưa tin cho một nhân vật cao
cấp nào đó trong giới chóp bu Việt Cộng đang ngã về phía Trung Cộng hay
có lập trường thân Trung mà thôi. Nội gián Trung Cộng cài vào nội bộ
Việt Cộng không thể nào chỉ ở cấp phóng viên chạy lăng xăng như ông
Hoàng mà thực chất, nội gián của Trung Cộng phải nằm ở ngay cấp chóp bu
trung ương của Việt Cộng.
Trước đây, các "đồng chí" của Lê Khả Phiêu cũng tung tin ra ngoài là Lê
Khả Phiêu vướng phải ái tình với Trương Mỹ Vân do Trung Cộng cài đặt
sanh ra đứa con gái, để rồi từ đó bị Trung Cộng khống chế hết đường cựa
quậy mà phải dâng toàn bộ vịnh Bắc Bộ cho Trung Cộng. Chuyện ăn ngủ gái
ghiếc riêng tư của Lê Khả Phiêu, người dân làm sao mà biết được vì đảng
bưng bít mọi bề nên tin tức này phải là từ nội bộ của Cộng đảng xì tin
tức ra ngoài.
Tuy nhiên, hai mảng tin về Hà Huy Hoàng cùng Lê Khả Phiêu, một có thật,
một đồn đại, cũng cho thấy là nội bộ chóp bu của Việt Cộng chính thức
thừa nhận sự khống chế của Trung Cộng về mặt tình báo lên Việt Nam cũng
như Trung Cộng sẽ tìm mọi cách khống chế và để đẩy mạnh hoạt động tình
báo tại Việt Nam. Lời thú nhận của tướng Công an Trương Giang Long (7)
về hiện tình Cộng đảng đang bị Trung Cộng "khống chế tình báo" không
hiểu vì sao được phát tán ầm ĩ trên mạng gần đây càng khẳng định thêm sự
thật này.
B. Quan niệm "khống chế tình báo" của Trung Cộng:
Dựa trên sự phân tích hàng loạt các phản ứng, các chính sách ở mọi mặt
của Trung Cộng, mọi người có thể dễ dàng nhìn thấy mục tiêu của Trung
Cộng là tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng ảnh hưởng chính trị, quân sự
của mình lên mọi nơi cũng như bành trướng địa dư, và tìm đủ cách bảo vệ
an toàn con đường chở dầu hỏa về cung phụng nền kinh tế của Trung Cộng.
Từ đó, Trung Cộng cần một đối sách chiến lược tình báo để tăng cường sức
ảnh hưởng của mình lên nhiều quốc gia, nhằm đảm bảo an ninh kinh tế và
an ninh chính trị cho Trung Cộng. Chiến lược tình báo này tạm gọi là
chiến lược "khống chế tình báo.”
Do đó, có thể hiểu định nghĩa của “khống chế tình báo" là khả năng mà
ngành tình báo có thể khống chế hay lèo lái quyết định của giới cầm
quyền của một quốc gia, của một tổ chức, một phe nhóm hay của một công
ty, vân vân, về mặt nhân sự, về mặt kinh tế đầu tư, về mặt quốc phòng,
thông tin và an ninh sao cho có lợi cho mình.
Ngành tình báo của Trung Cộng vạch rõ mục tiêu hay ngành nghề cụ thể
cần phải "khống chế tình báo" cho từng quốc gia khác nhau. Do đó, hoạt
động và mục tiêu tình báo của Trung Cộng ở mọi quốc gia cũng khác nhau.
Đặc biệt, trong nỗ lực bành trướng ảnh hưởng chính trị và kinh tế ra
toàn cầu, tình báo của Trung Cộng bỏ dần chủ trương hỗ trợ khủng bố của
ba thập niên từ 1960 đến 1990 mà từ từ tập trung đi theo khái niệm
"khống chế tình báo" để gia tăng quyền lợi kinh tế, quyền lợi chính trị
của mình lên các nước.
Tập Cận Bình là người chủ trương đẩy mạnh khái niệm tình báo này. Nhờ
lèo lái khôn khéo ngành tình báo tay chân của mình theo khái niệm này,
họ Tập đã có thể loại bỏ được vây cánh Trùng Khánh đông như kiến của Bạc
Hy Lai mà đảng Cộng Sản không bị đổ vỡ, lại có thể buộc trùm an ninh
tình báo Trung Cộng là Chu Vĩnh Khang buông tay đầu hàng không phản
kháng. Đó là chưa kể khiến phe Thượng Hải của họ Giang phải tan hàng dù
biết vây cánh mình đủ sức giết họ Tập bất cứ lúc nào mình muốn. Họ Tập
cũng dùng phương thức "khống chế tình báo" để buộc những kẻ bị mình
thanh trừng không thể động binh phản pháo mà phải tự tử hoặc chịu đòn tù
tội trong im lặng dù binh lực nắm cả vạn người trong tay, lúc nào cũng
sẵn sàng.
Mức độ và khả năng "khống chế tình báo" của Trung Cộng dưới thời họ Tập
phát triển ngày một tinh vi, giúp cho họ Tập nắm toàn quyền tuyệt đối
trong nội bộ, bành trướng mạnh hoạt động tài chánh và đầu tư của Trung
Cộng ra ngoài hải ngoại, lèo lái âm thầm để những lập trường chính trị
bài xích hàng hóa Trung Cộng ở từng quốc gia bị suy yếu đi.
Đối sách "khống chế tình báo" mà Trung Cộng đang sử dụng lên các nước
ASEAN khiến ASEAN như bãi cát rời, khiến Mỹ thì chập chừng thiếu quyết
đoán, khiến Úc thì nghi ngại để rồi mọi quyết định cần thiết của cộng
đồng quốc tế để ngăn cản và chấm dứt sự xây lấn tái phép biển đảo của
Trung Cộng tại biển Đông không thể thực hiện được.
Quan niệm "khống chế tình báo" khác hẳn với hành động khống chế theo
kiểu "black mail" thường nghĩ ở một chổ, quyết định của nạn nhân bị
"black mail" hầu hết là cưỡng ép trong khi hầu hết quyết định của những
nạn nhân bị "khống chế tình báo" lại là tự nguyện do suy tính phản ứng
trước tình huống sao cho có lợi nhất về mình. Nghĩa là, nạn nhân bị
"khống chế tình báo" có thể là một tổ chức, một công ty, một đảng phái
hay một quốc gia, hay một nhân vật quan trọng, đưa ra quyết định sao cho
có lợi nhất cho mình, cho gia đình mình trong một hoàn cảnh nhất định,
nhưng sự suy tính đã bị chi phối bởi những ảnh hưởng bí mật do ngành
tình báo cài đặt từ xa, qua nhiều bước cài đặt tinh vi chồng chất. Nạn
nhân có toàn quyền quyết định khác đi nếu muốn, nhưng ngay cả khi quyết
định khác đi, sự quyết định này của nạn nhân cũng có lợi cho thế lực
đang có phương tiện "khống chế tình báo.”
Thí dụ như tình hình Việt Nam. Việt Nam hiện nay đang dần dần trên đà là
nạn nhân của phương thức "khống chế tình báo" của Trung Cộng. Nghĩa là
trong cả hai trường hợp, Việt Cộng quyết định chống ảnh hưởng Trung Cộng
hay Việt Cộng quyết định quy thuận Trung Cộng thì đều có lợi cho Trung
Cộng.
Nếu bàn thảo chống hay đánh Trung Cộng để tự vệ thì ngành tình báo của
Trung Cộng mọc rễ sâu rộng trong giới chóp bu của Việt Cộng dư sức làm
cho bộ Chính Trị của Việt Cộng bị rối loạn tự tan rã trong chớp mắt
khiến Việt Nam lại thuận thảo Trung Cộng hay bị Trung Cộng chiếm đóng.
Còn trong trường hợp Việt Cộng quy thuận Trung Cộng ngay từ đầu thì Việt
Cộng cũng không thể tồn tại trên quyền lực vì mọi quyết định của Việt
Cộng đều phải nằm trong một khung sườn chính trị ngoại giao do Bắc Kinh
để ra rất cụ thể và chi tiết. Nền tài chánh Việt Nam bị Trung Cộng kiểm
soát. Lúc đó, mặt nhân sự của Cộng đảng bị bóp méo mất tự chủ và toàn bộ
nền kinh tế quốc phòng của Việt Nam là do Trung Cộng chi phối đều
khiến. Đó là chưa kể Bắc Kinh có thể sẽ cử người trực tiếp tiếp quản
Việt Cộng theo phương thức bí thư hay cố vấn từ Bắc Kinh, ban thường
trực là người địa phương, khiến Việt Cộng hoàn toàn bị mất quyền lợi
ngoại giao, quyền lợi kinh tế. Trung Cộng cũng có thể sẽ chia Việt Nam
ra thành nhiều quận hạt với nhiều hình thức bù nhìn khác nhau khiến Việt
Cộng không còn khả năng phản kháng.
Đương nhiên, Việt Cộng còn giải pháp ngã về phía Hoa Kỳ mong Hoa Kỳ
"rộng thương cỏ nội hoa hèn" mà giúp nhưng do bị “khống chế tình báo”
bởi Trung Cộng sâu rộng bên trong, làm gì mà nội bộ Việt Cộng có thể đủ
sức đi đến quyết định làm đồng minh của Mỹ?
Tuy nhiên, xin được lưu ý là nếu Việt Cộng bị lật đổ trong bất ngờ để
thể chế dân chủ dân quyền Việt Nam Cộng Hòa thiết lập thì mọi nỗ lực
"không chế tình báo" của Trung Cộng trước giờ lên Cộng đảng bị hóa giải
hoàn toàn- khiến Trung Cộng muốn có được tình huống "không chế tình
báo" trở lại thì phải cần thời giờ gầy dựng lại từ đầu rất khó và rất
lâu.
C. Các phương thức "khống chế tình báo" của Trung Cộng:
Đi tìm nguồn gốc của sách lược "khống chế tình báo" mà Trung Cộng áp
dụng để coi ai là cha đẻ của sách lược này, đến giờ phút này vẫn chưa có
sự khẳng định rõ ràng, chỉ biết là phương thức "khống chế tình báo" của
Trung Cộng là một chương hay một phần trong “sách lược sức mạnh mềm"
được Hoa Kỳ đẩy mạnh vào thời các tổng thống Clinton, Bush con và
Obama.
Đối với Việt Nam, "sách lược sức mạnh mềm" đã được Hoa Kỳ áp dung vào
năm 1992 và thỉnh thoảng bị hé lộ úp úp mở mở trên các hãng thông tấn,
trên các bài bình luận của các chiến lược gia Hoa Kỳ với tiếng lóng là
"flirting policy", tạm dịch là "đối sách dụ khỉ". Dường như Trung Cộng
bỏ hết các chương mục khác của toàn bộ đề nghị "sách lược sức mạnh mềm"
mà chỉ lấy chương "khống chế tình báo" trong sách lược này để sử dụng
với nhiều cách thức tàn nhẫn, tốn kém và gấp rút hầu mong đạt được kết
quả nhanh hơn dự tính trong mọi lãnh vực từ thanh trừng chính trị đến
khống chế kinh tế, chính trị ở nhiều quốc gia.
Thông qua hàng ngàn tin tức thu thập bấy lâu về kinh tế chính trị trên
thế giới, chúng ta có thể thấy Trung Cộng sử dụng các phương thức chủ
yếu sau đây để đạt được mục tiêu "khống chế tình báo" của mình:
1, Lũng đoạn tài chánh
2. Mua chuộc nhân sự
3. Thâu tóm thị trường
4. Khống chế thông tin
5. Liên kết quyền lợi.
Như vậy, khi Việt Cộng là nạn nhân "khống chế tình báo" của Trung Cộng thì:
1. Nền tài chánh do Việt Cộng chủ quản sẽ bị Trung Cộng lũng đoạn tối đa.
2. Nhân sự hàng ngũ Cộng đảng cũng bị Trung Cộng mua chuộc tối đa ở mọi
cấp, kể cả ở quận huyện, ở khối doanh nghiệp, ở các ban ngành.
3. Thị trường hàng hóa tại Việt Nam phải là thị trường hàng hóa của Trung Cộng.
4. Mọi thông tin trên mạng từ mọi cơ sở chính quyền, từ mọi tổ chức tại
Việt Nam, kể cả email đều bị Trung Cộng thu thập, phân tích và khống
chế. Tất cả các internet server (hay gọi nôm na là ổ chứa vi tính) hiện
nay tại Việt Nam đều sẽ phải có các phần mềm dò xét (spyware) của Trung
Cộng cài đặt hay phải kết nối hoặc bị khống chế bởi các server của Trung
Cộng trong mục tiêu kiểm soát khống chế thông tin.
5. Quyền lợi đem đến nhờ độc tài đảng trị đã là dã tâm làm mờ mắt các
đảng viên và tạo ra sức hút quá mạnh buộc Việt Cộng phải liên kết với
Trung Cộng để chống đa đảng, đa nguyên và đòi hỏi tiến bộ dân quyền
trước sức ép của mạng internet và của Hoa Kỳ trong sách lược “sức mạnh
mềm.” Do đó, hợp tác giữa Việt Cộng và Trung Cộng về an ninh chính trị
cần phải có, để rồi vòng xoáy dã tâm tham vọng quyền lực khiến Việt Cộng
từ từ hoàn toàn trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo"
của Trung Cộng hết cách cứu vãn, đẩy toàn bộ xã hội Việt Nam vào tình
trạng lệ thuộc Trung Cộng về mọi mặt.
Khi đã biết được năm phương thức chủ yếu mà ngành tình báo của Trung
Cộng tiến hành để biến Việt Nam thành nạn nhân của "khống chế tình báo"
thì sẽ hiểu được hoạt động tình báo của Trung Cộng tại Việt Nam sẽ phải
như thế nào, sâu rộng ra làm sao.
D. Hoạt động tình báo của Trung Cộng tại Việt Nam:
Hoạt động tình báo của Trung Cộng tại Việt Nam từ đó, như đã trình bày
phần trên, sẽ phải dàn trải sâu rộng vào mọi ngã ngách của xã hội Việt
Nam, vào mọi ngành nghề của Việt Nam, vào mọi tập đoàn kinh tế của Việt
Cộng do chủ quản, ở mọi địa phương, ở mọi cấp bậc trong chính quyền,
trong Cộng đảng, mọi máy vi tính, mọi ổ chứa server, thậm chí lan rộng
luôn vào bộ phận tình báo lẫn bộ quốc phòng của Việt Cộng. Nói một cách
khác, Trung Cộng biết chi tiết mọi tình huống xảy ra ở Việt Nam trong
mỗi phút trước cả thông tin được tải đăng trên báo chí.
Khi tổng thống Obama sang thăm Việt Nam, ông ghé vào quán bún bình dân
nhỏ bé ở góc phố bình thường như mọi góc phố dơ bẩn ồn ào khác ở ngoài
Hà Nội (8), ông muốn gởi một thông điệp cảnh cáo đến giới chóp bu Cộng
đảng ở Hà Nội là một quán bún nhỏ ở ngỏ ngách Lê Văn Hưu mà Tổng thống
nước Mỹ cũng biết thì những gì Cộng đảng đang toan tính, những mưu mô
lợi dụng nước Mỹ, đương nhiên tổng thống Mỹ cũng biết. Thế nhưng đồng
thời, tổng thống Obama cũng muốn gởi thông điệp đến Bắc Kinh, đang dòm
ngó nội tình Việt Nam hết sức kỹ lưỡng không xót một viên gạch, là mọi
hoạt động tình báo sâu rộng mà Trung Cộng đang tiến hành trên lãnh thổ
Việt Nam được thì người Mỹ cũng làm được.
Điều này cho thấy rõ Việt Nam hiện tại vẫn là chiến trường của hai siêu
cường Trung Cộng và Hoa Kỳ, một loại chiến trường kiểu mới không tiếng
súng, khiến người dân bình thường không nghĩ đến, không biết, không thấy
có bom đạn đổ máu, nhưng kẻ thắng trong chiến trường này sẽ kiểm soát
được quốc gia Việt Nam sau này. Đó là chiến trận chiến tình báo tại Việt
Nam.
Cũng giống như năm 1963, Hoa Kỳ phải vào tham chiến miền Nam để ngăn cản
sức tấn công tàn khốc của Cộng Sản Bắc Việt lên Việt Nam Cộng Hòa, kể
từ năm 1992 thì Hoa Kỳ đã phải nhảy vào tạo ra trận chiến mặt trận tình
báo, nhằm cứu vãn trong âm thầm cho Việt Nam thoát khỏi sự tấn công tình
báo từ phía Trung Cộng, để quá trình Việt Nam trở thành nạn nhân của
sách lược "khống chế tình báo" của Trung Cộng trở nên khó khăn hơn.
Tuy nhiên, cũng giống như trận chiến ngăn chống sự tấn công của Cộng Sản
Bắc Việt trước năm 1975, sự can dự phòng thủ mặt trận tình báo của Hoa
Kỳ cho Việt Nam ngày nay có mức độ và giới hạn. Và Trung Cộng cũng sẽ đi
đường vòng ra phía sau hậu trường nước Mỹ để vận động cho một sự thoái
lui trên mặt trận tình báo của Mỹ, giống như trước năm 1975 nước Mỹ
thoái lui về quân sự do hậu trường chính trị thay đổi để Việt Nam hoàn
toàn bị Trung Cộng lũng đoạn.
Việt Cộng không cách gì có thể đủ sức phòng thủ nổi trong lãnh vực tình
báo trước Trung Cộng do giới chóp bu của Việt Cộng và hầu hết các đảng
viên đang bị mờ mắt trước quyền lợi tiền tài từ Trung Cộng đem lại cũng
như từ sự độc tài toàn trị đem lại và sẽ đẩy Việt Nam hoàn toàn trở
thành nạn nhân của chiến lược "khống chế tình báo" của Trung Cộng.
Lý do Trung Cộng còn để Việt Cộng tồn tại trong một thời gian nữa là vì
khả năng của Việt Cộng làm tiêu tan sức mạnh đối kháng của dân tộc Việt
giúp giùm cho Trung Cộng. Ngày nào khả năng này của Việt Cộng không còn
cần thiết nữa thì Trung Cộng sẽ ra tay bóp nát Việt Cộng trong nháy
mắt.
E. Lời kết:
Mọi chế độ tràn ngập tham nhũng chính là dấu hiệu của cả một quốc gia
đang dần dần trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" của
một quốc gia khác. Mọi xã hội có chế độ độc tài thì xã hội đó bị suy yếu
và mất sức đề kháng. Việt Nam đã không còn sức để kháng Trung Cộng
được nữa và sẽ trở thành nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" của
Trung Cộng.
Niềm hy vọng duy nhất cho sức để kháng Trung Cộng của Việt Nam bây giờ
chính là tinh thần dân tộc dân quyền của công dân Việt Nam Cộng Hòa ở
trong nước lan ra tới hải ngoại. Ngày nào còn chê bai, dị biệt, xa lánh
tình thần Việt Nam Cộng Hòa là ngày đó, Việt Nam vẫn còn là nạn nhân của
Trung Cộng trên mọi lãnh vực từ kinh tế chính trị đến an sinh xã hội,
là nạn nhân của sách lược "khống chế tình báo" do Bắc Kinh tiến hành.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét