Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2017

Đấu đá giữa kỳ & Vận mệnh quốc gia

Nguyễn Quang Dy



Hội nghi TW5 đã bắt đầu. Sự cố Đồng Tâm chưa kịp lắng xuống thì tin kỷ luật ông Đinh La Thăng lại rộ lên. Không khí Hà Nội lại nóng bỏng và ngột ngạt như trước ĐH XII, với những tin tức đồn đoán dồn dập. Sau ông Thăng sẽ đến lượt ai? Liệu ông Nguyễn Tấn Dũng có còn an toàn? Ai sẽ thay ông Thăng tại thành phố Hồ Chí Minh? Nhưng quan trọng hơn cả là ai sẽ giành được chiếc ghế Tổng Bí thư? Phải chăng những ân oán chưa kịp thanh toán tại ĐH XII thì nay phải thanh lý? Có lẽ vấn đề nhân sự còn quan trọng hơn cả vận mệnh quốc gia.

Đối với nhiệm kỳ của một chính phủ mới, việc kiểm điểm hay đánh giá giữa kỳ (mid-term review) là một thông lệ cần thiết (đúng quy trình). Muốn đánh giá khách quan để có một bức tranh phản ánh đúng hiện trạng, nhằm cải cách thể chế theo định hướng “kiến tạo, phục vụ, liêm chính và hành động”, người ta thường tham vấn ý kiến của các chuyên gia tư vấn độc lập. Dưới đây là một số đánh giá khái quát về thực trạng Việt Nam trước TW5.    

Chính phủ kiến tạo

Ngay tại đại hội doanh nghiệp nhỏ và vừa (3/12/2016) thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh “phải xóa bỏ ngay tình trạng quan hệ thân hữu đang bóp chết việc làm ăn chân chính, xóa bỏ tư tưởng quan hệ tốt với chính quyền sẽ có cơ hội tiếp cận tốt hơn các tài nguyên đất đai, thể chế và các ưu đãi ngầm”. Chính phủ xác định trọng tâm trách nhiệm của mình là “cải cách thể chế” để xây dựng chính sách và thực hiện chiến lược đúng quy hoạch. Trong chỉ đạo và điều hành phải bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng, xóa bỏ cơ chế “xin-cho”, chống lại lợi ích nhóm, tham nhũng và trục lợi. (Người Lao Động, 3/12/2016).

Từ khi nhậm chức, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cam kết trước toàn dân về một chính phủ “kiến tạo, phục vụ, liêm chính và hành động”. Ngay từ đầu, Thủ tướng đã tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Ông đã tạo được dấu ấn nhất định với cộng đồng doanh nghiệp bằng cách đối thoại trực tiếp, và đưa ra Nghị quyết 19 và Nghị quyết 35 (năm 2016) và Nghị quyết 19 (năm 2017) để thúc đẩy “cải cách môi trường kinh doanh”. Đó là một định hướng đúng, nhưng các nghị quyết ở cấp chính phủ chưa đủ. Nhưng nếu thiếu hoặc chậm tiến hành cuộc cải cách thể chế mạnh mẽ vào lúc này thì sẽ không thể có được một chính phủ kiến tạo để dẫn dắt sự phát triển.

Ngay với ba nghị quyết nói trên, muốn có kết quả thực sự, Thủ tướng phải có sự đồng hành của lãnh đạo các cấp, đặc biệt là các bộ trưởng và chủ tịch các tỉnh/thành phố. Nhưng trên thực tế, chưa thấy có sự đồng hành đó. Lãnh đạo các cấp vẫn còn “đủng đỉnh, ỳ ạch, đẩy qua đẩy lại công việc cho nhau và chậm giải quyết theo chức trách của mình”. Một số bộ, ngành vẫn bám giữ những chính sách lỗi thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp và một số ngành nghề. Giữa lời nói và việc làm vẫn còn một khoảng cách xa vời, chưa khắc phục được. (“Thể chế cho một chính phủ kiến tạo”, Doanh nhân Saigon cuối tuần, 24/01/2017).

Theo bà Phạm Chi Lan, trong số các di sản của chính phủ trước, vấn đề nan giải số một là nợ công, thứ hai là nợ xấu ngân hàng, và thứ ba là ba đột phá chiến lược thực hiện chậm. Nhưng đến nay các vấn đề này vẫn còn rất nan giải. “Tiền đề quan trọng nhất là đổi mới tư duy thì vẫn chưa làm được trong đông đảo đội ngũ nhà nước”. (“Bà Phạm Chi Lan trả lời phỏng vấn về thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc”, Huỳnh Phan, VietnamNet, 10/9/2016).

Tiến sỹ Lê Hồng Hiệp nhận xét rằng thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tập trung cải cách môi trường kinh doanh để khắc phục hậu quả do chính phủ trước để lại: hệ thống ngân hàng yếu kém, thâm hụt ngân sách lớn, các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ và tham nhũng. Chủ trương đó đã làm cộng đồng doanh nghiệp tin tưởng hơn vào chương trình cải cách của chính phủ mới và một số thay đổi ban đầu đã được quốc tế thừa nhận. Tuy nhiên chương trình cải cách gặp phải nhiều thách thức, nhất là xu hướng bảo hộ ngày càng tăng trên thế giới, và hiệp định thương mại TPP bị Mỹ bỏ rơi. Đó là những rào cản làm ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế và làm chậm đà cải cách của Việt Nam trong mấy năm tới. (“Reviewing Vietnam’s Economic Reforms since the CPV’s 12th Congress”, Lê Hồng Hiệp, January 5, 2017).   

Theo giáo sư Carl Thayer, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc “có tinh thần đồng đội”, và những kinh nghiệm chuyên sâu trong việc điều hành chính quyền địa phương ở Quảng Nam trước đây cũng như  khi làm Bộ trưởng - Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ, và Phó thủ tướng sau này. Tuy vậy,  Carl Thayer chỉ ra 4 thách thức mà ông Nguyễn Xuân Phúc đang đối mặt: (1) giảm nợ công, (2) cải cách hệ thống ngân hàng, (3) cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, (4) chống tham nhũng. Carl Thayer nhận xét, “Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc là một nhà điều hành và thực thi chính sách có năng lực. Chúng ta có thể kỳ vọng vào những thành quả trong nhiệm kỳ của ông ấy”. (“Một năm của Chính phủ kiến tạo và hành động”, Zing, 10/4/2017).

Theo giáo sư Alexander Vuving, chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cần cải cách thể chế để tạo môi trường kinh doanh thông thoáng. Tuy còn hơi sớm để kết luận có đột phá được không, nhưng có nhiều lý do để hy vọng đổi mới sẽ tiếp tục diễn ra. Ngoài đổi mới nhân sự lãnh đạo cấp cao sau Đại hội Đảng lần thứ XII, có một số xu thế lớn đang thúc đẩy chính trị và kinh tế Việt Nam theo hướng đổi mới hơn nữa. Mục tiêu này cần trải qua nhiều bước, mà bước đầu tiên có thể tiến hành ngay là rà soát lại các văn bản dưới luật, như các quy định, thủ tục, nghị định, thông tư, chỉ thị. Cần mạnh tay loại bỏ các rào cản để giảm mạnh chi phí kinh doanh, đồng thời sửa lại các quy định theo hướng bảo vệ lợi ích chung, và giảm thiểu lợi ích nhóm.

Song song với quá trình này, cần tinh giản và sắp xếp lại bộ máy nhân sự nhà nước, bao gồm các cơ quan công quyền và doanh nghiệp nhà nước để tăng hiệu quả, hiệu lực và năng suất của khu vực công. Hiện tượng hiệu quả thấp và năng suất thấp không chỉ phổ biến ở khu vực nhà nước mà cả ở khu vực tư nhân. Việc tăng hiệu quả đầu tư và tăng năng suất lao động là những thách thức lớn mà chính phủ mới cần phải tìm mọi cách vượt qua.

Tiến sỹ Huỳnh Thế Du (Đại học Fulbright, Việt Nam) nhận xét “Ấn tượng lớn nhất của tôi là những hành động thực tiễn, đúng với khẩu hiệu Chính phủ hành động mà thủ tướng đã đề ra”. Thủ tướng đã có nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, cố gắng cải cách thể chế để tạo ra sự minh bạch trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, “nhưng chưa thấy một chiến lược rõ ràng để giải quyết căn bản vấn đề bộ máy hành chính cồng kềnh, thể chế thiếu minh bạch, làm rõ trách nhiệm giải trình của cán bộ lãnh đạo”. Trong năm đầu tiên giữ cương vị đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đi thăm nhiều nước (Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Mông Cổ, Lào, Campuchia và Thụy Sĩ), nhằm thúc đẩy quan hệ đối ngoại.

Đại sứ Anh Giles Lever nói, “Tôi ấn tượng nhất với thành tựu của Chính phủ trong cải thiện môi trường kinh doanh. Trong xếp hạng của Ngân hàng Thế giới năm nay, Việt Nam đã tăng tới 9 bậc, trở thành một trong 60 nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới”.

Tuy các chuyên gia nhận xét khá tích cực về chủ trương cải cách của chính phủ mới, nhưng họ cũng vạch ra nhiều thách thức và rủi ro có thể làm thui chột kết quả. Liệu đấu đá tranh giành quyền lực giữa kỳ sẽ thúc đẩy hay cản trở cải cách thể chế? 12 dự án lớn thua lỗ hàng chục ngàn tỷ đồng, đang được bàn hướng xử lý, nhưng dường như vẫn chưa có ai chịu trách nhiệm. Sau PVN sẽ là vụ nào tiếp ? Vấn đề cải cách thể chế và “nhất thể hóa” bộ máy và chức danh lãnh đạo (mở rộng đề án 25) liệu có được xác quyết lần này (TW5) hay lần sau (TW6)? Đây là những hội nghị trù bị cho Đại hội giữa nhiệm kỳ vào năm 2018, nên qua vụ PVN và 12 vụ án lớn phải xét xử trong năm nay, chắc có nhiều quan chức phải vào tù.   

Tại Đại hội XII, để loại ông Nguyễn Tấn Dũng, ông Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị đã phải nhượng bộ ông Dũng bằng cách chấp nhận cơ cấu ông Nguyễn Văn Bình, ông Đinh La Thăng và ông Hoàng Trung Hải vào Bộ Chính trị. Nay nếu ông Đinh La Thăng bị kỷ luật phải ra khỏi Bộ Chính trị, thì liệu ông Bình và ông Hải có thoát không? Bên cạnh mục tiêu chống tham nhũng, ông Nguyễn Phú Trọng (và ông Trương Tấn Sang) chắc còn khát vọng cá nhân muốn đòi món nợ từ TW6 năm 2012 khi ông Nguyễn Tấn Dũng thoát tội. 

Bàn cờ đối ngoại

Chủ nghĩa biệt lập và xu hướng bảo hộ trong nước (đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới), thay vì toàn cầu hóa và thương mại tự do, sẽ cản trở Việt Nam tiếp tục đổi mới và phát triển. Không có hiệp định TPP, Việt Nam sẽ bị hẫng hụt vì mất một cơ hội lớn để mở rộng thị trường ngoài nước, đồng thời mất một sức ép mạnh từ bên ngoài để thực hiện cải cách thể chế trong nước. Việt Nam có nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tại Manila (26-29/4/2017), Tuyên bố Chung của ASEAN không nhắc gì đến việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, vì ASEAN bị Trung Quốc phân hóa.  

Tuy hy vọng đến một lúc nào đó ông Donald Trump sẽ đổi ý (như các vấn đề khác) và quay lại với TPP, nhưng đừng nên trông đợi vào khả năng này. Việt Nam phải mau chóng đàm phán để thực hiện một “TPP minus” (trừ Mỹ), nhằm tận dụng các cơ hội của hiệp định này trong khuôn khổ 11 nước, đồng thời có những nỗ lực rất lớn để thúc đẩy xuất nhập khẩu và đầu tư với thị trường Mỹ. Việt Nam cũng phải khai thác tối đa các cơ hội thị trường với những đối tác quan trọng khác như Liên Minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, AEC. Tăng cường nội lực vừa là tiền đề tối cần thiết cho phát triển của Việt Nam, vừa là điều kiện không thể thiếu để Việt Nam có thể hội nhập, hợp tác kinh tế tốt với các đối tác bên ngoài.

Quan hệ Mỹ-Trung dưới thời Tổng thống Donald Trump tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cả hai kịch bản sau đều nguy hiểm cho Việt Nam: (1) Căng thẳng gia tăng dẫn đến xung đôt Mỹ-Trung (về thương mại hay Biển Đông) và (2) hòa hoãn dẫn đến bắt tay hợp tác Mỹ-Trung (đi đêm) hy sinh lợi ích của đồng minh và bạn bè (như năm 1972-1975). Việc tái cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc trong tam giác Mỹ-Trung-Việt sẽ khó hơn. Vì vậy ngoài Mỹ, Việt Nam phải mau chóng tăng cường đối tác chiến lược với các cường quốc Tây Âu (như Anh, Pháp, Đức), và với các cường quốc Châu Á (như Nhật, Ấn Độ, Úc) trong khuôn khổ đối tác chiến lược mới ở Châu Á-TBD để đối phó với Trung Quốc bành trướng ở Biển Đông. 

Việt Nam có chủ trương “làm bạn với tất cả”. Nhưng theo tiến sỹ Vũ Quang Việt (chuyên gia LHQ) “Từ xưa tới giờ, Việt Nam chưa bao giờ là đồng minh của Mỹ. Có thể nói thật ra Việt Nam tưởng Trung Quốc là đồng minh của mình nhưng không phải như vậy. Cho nên, Việt Nam không có đồng minh, mà cơ bản là không có bạn. Ngay cả Nga cũng không phải là bạn của Việt Nam, mà Nga cũng không coi Việt Nam là bạn”. Ông Việt cho rằng Việt Nam phải nhận thấy thực tế đó để không ảo tưởng, và có đường lối độc lập tự chủ.

Ngay sau khi Donald Trump đắc cử, Thủ tướng Nguyễn Xuân phúc đã có cuộc điện đàm ngắn với ông Trump (14/12/2016), và khẳng định “Việt Nam coi trọng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Mỹ”. Tổng thống đắc cử Donald Trump đánh giá cao những thành tựu Việt Nam đạt được và những tiến triển tích cực trong quan hệ hai nước và “khẳng định mong muốn hợp tác với Việt Nam để cùng thúc đẩy quan hệ”. (VietnamNet, 15/12/2016).

Trong lần gặp Đại sứ Ted Osius (nhân dịp ông được tái cử làm đại sứ tại Việt Nam), Chủ tịch nước Trần Đại Quang cho biết ngày 23/2/2017, Tổng thống Donald Trump đã gửi thư cho Chủ tịch và “khẳng định mong muốn thúc đẩy hợp tác”. Đó là những tín hiệu tốt từ phía Mỹ, nhưng nên nhớ Donald Trump vẫn là một ẩn số khó lường. Việc Bộ Quốc phòng Mỹ không cho hải quân tiếp tục tuần tra (FONOPS) tại Biển Đông làm người ta lo ngại Trump có thể đổi chác vấn đề Biển Đông lấy vấn đề hạt nhân Triều Tiên. (“Trumps Turn Toward China Curtails Navy Patrols in Disputed Zones”, Helene Cooper, NYT, May 2, 2017).

Các chuyên gia CSIS (như Phương Nguyên) cho rằng “phe người lớn” (the Axis of Adults) trong chính quyền Mỹ (như H.R. McMaster, James Mattis, Rex Tillerson) sẽ không dễ dàng để Tổng thống Trump có thể làm ảnh hưởng đến vị trí chiến lược của Mỹ ở châu Á-TBD. Năm 2014, khi TNS John McCain thăm Hà Nội (khi Trung Quốc hạ đặt dàn khoan HD981) ông McCain đã từng khuyên Việt Nam “Chúng ta phải nhanh lên”. Nhưng đáng tiếc lúc đó Việt Nam vẫn đang đánh đu với Mỹ và Trung Quốc, nên bỏ qua cơ hội.

Tại sao Tổng thống Donald Trump gửi thư cho Chủ tịch nước Trần Đại Quang (23/2/2017), chứ không phải là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hay Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc? Trong “Tứ trụ” hiện nay ông Trần Đại Quang vẫn là một ẩn số. Nghe nói ông Trần Đại Quang lên làm chủ tịch nước vì đã có công ngăn chặn được tham vọng của ông Phùng Quang Thanh. Khi còn làm Bộ trưởng Bộ Công An, ông Trần Đại Quang đã đi thăm Mỹ gần một tháng (3/2015) nhưng vẫn chưa đi thăm Trung Quốc lần nào. Người ta cho rằng ông Trần Đại Quang có thể kế thừa đường lối đổi mới của ông Nguyễn Tấn Dũng. Quan điểm đổi mới của ông Lê Kiên Thành gần đây dường như phản ánh phần nào quan điểm của Chủ tịch nước Trần Đại Quang và Bộ trưởng Tô Lâm. (“Nghĩ về cuộc đổi mới lần 2”, Lê Kiên Thành, CAND, 19/2/2017). 

Sau khi thăm Trung Quốc, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đã sang thăm Mỹ, hội đàm với Ngoại trưởng Rex Tillerson tại Washington (20/4/2017). Ông Phạm Bình Minh đã chính thức trao thư của Chủ tịch nước Trần Đại Quang mời Tổng thống Donald Trump tham dự Hội nghị cấp cao APEC 2017 và thăm chính thức Việt Nam. Ông Tillerson đã khẳng định Tổng thống Donald Trump sẽ tham dự Hội nghị cấp cao APEC 2017 tại Đà Nẵng. Tại cuộc hội đàm giữa Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh với Cố vấn Hội đồng An ninh quốc gia H.R. McMaster (21/4/2017) ông McMaster đã trao thư của Tổng thống Donald Trump chính thức mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Hoa Kỳ. (VietnamNet, 21/4/2017).

Thực trạng đất nước

Thứ nhất là suy thoái về kinh tế và khủng hoảng tài chính, do nợ công khổng lồ và nợ xấu ngân hàng ngày càng gia tăng. Tình trạng “thu không đủ chi” dẫn đến bội chi ngân sách làm thâm hụt ngân sách trầm trọng, buộc chính phủ phải bán tháo vốn ở một số doanh nghiệp lớn. Theo đồng hồ nợ công quốc tế (the Economist), nợ công của Việt Nam (nợ chính phủ) đã tới ngưỡng báo động (65% GDP). Nhưng theo tiến sĩ Vũ Quang Việt (chuyên gia thống kê của LHQ), tổng số nợ công (năm 2016) là 431 tỉ USD (bằng 210% GDP). Đây là tổng số nợ của chính phủ và nợ của các doanh nghiệp nhà nước, sau khi trừ đi phần chính phủ bảo lãnh trùng lặp. Theo ông Việt, riêng nợ của 3200 DNNN là 324 tỉ USD (2016), bằng 158% GDP. (“Nợ, trả nợ và khủng hoảng”, Vũ Quang Việt, TBKTSG, 9/2/2017).

Thứ hai là suy thoái của hệ thống chính quyền và khủng hoảng lòng tin trong nhân dân (kể cả “một bộ phận không nhỏ” cán bộ đảng viên). Chính quyền “của dân, do dân, vì dân” đã trở thành khẩu hiệu suông, hay nói khác đi là “của nhóm lợi ích, do nhóm lợi ích ,vì nhóm lợi ích”. Trong thực tế, các nhóm lợi ích đã lợi dụng các lỗ hổng về thể chế (đặc biệt chế độ sở hữu toàn dân về đất đai và các nguồn tài nguyên khoáng sản) như luật sơ hữu toàn dân về đất đai) để thao túng chính sách nhằm trục lợi. Có lẽ vấn đề sở hữu ruộng đất là quả bom nổ chậm lớn nhất hiện nay. Sự cố Đồng Tâm vừa qua là một ví dụ điển hình.

Thứ ba là suy thoái về hệ tư tưởng và khủng hoảng thể chế. Mô hình kinh tế thị trường “định hướng XHCN” và “sở hữu toàn dân” đã bộc lộ quá nhiều bất cập và rủi ro. Doanh nghiệp nhà nước (là “quả đấm thép” của chính phủ) đã bộc lộ quá nhiều yếu kém về quản trị, nên đánh mất vai trò chủ đạo, trở thành gánh nặng như tội đồ của nền kinh tế. Cổ phần hóa và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước vẫn chậm và ỳ ạch, vì bị các nhóm lợi ích thao túng. Có người lo nếu bỏ chính sách “hạn điền”, liệu các nhóm lợi ích có thao túng chiếm đoạt đất không?

Thứ tư là suy thoái về văn hóa, giáo dục và khủng hoảng nhân cách. Theo Dân Trí (31/5/2016) hiện nay có 225.000 cử nhân/thạc sĩ thất nghiệp. Cả nước có 412 trường đại học/cao đẳng, với 2,2 triệu sinh viên trong 95 triệu dân (một tỷ lệ còn cao hơn các nước phát triển). Theo Bộ Lao đông, Thương binh, Xã hội, đến quý III/2016, cả nước có hơn 1,1 triệu người trong độ tuổi lao động bị thất nghiệp, trong đó số có bằng cử nhân trở lên chiếm 1/3. Đó là cảnh báo về khủng hoảng giáo dục, làm chất lượng nguồn nhân lực và năng suất thấp. Trong khi đó giới trí thức vẫn tranh cãi gay gắt về chất lượng và tiêu chí phong hàm giáo sư. Hàng năm cả nước có 8000 lễ hội, tình trạng lãng phí, bạo lực và thiếu văn hóa tại các lễ hội đáng báo động. 

Thứ năm là suy thoái về môi trường (đặc biệt là môi trường biển, nguồn nước ngọt, rác thải và không khí). Nhiều dự án lớn đã gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường nghiêm trọng (như nhiệt điện/thủy điện). Điển hình nhất là siêu dự án thép Formosa đã gây ra thảm họa môi trường miền Trung (như một quả bom nổ chậm). Nguyên nhân chính là do tư duy chụp giật (vì dốt và tham lam) muốn đầu tư vào dự án lớn bằng mọi giá, bất chấp rủi ro về môi trường.

Bài học Vinashin  

Một ví dụ điển hình dẫn đến khủng hoảng tài chính và nợ công khổng lồ, là do những bê bối của “con tàu đắm Vinashin” và các tập đoàn kinh tế khác. Đó là một vòng tròn luẩn quẩn không có lối thoát, do tư duy quản trị sai lầm và yếu kém, bị các nhóm lợi ích thao túng lỗ hổng thể chế để tham nhũng trục lợi, dẫn đến vấn nạn kinh tế hiện nay. Vào thời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Vinashin đã nợ tới 86 ngàn tỷ VNĐ (bằng 4 tỷ USD, chiếm 2,5% GDP).

Năm 2005 chính phủ phát hành 750 triệu USD trái phiếu, kỳ hạn 10 năm, lãi xuất 7,125%/năm tại thị trường CK New York, hạn trả gốc và lãi là 2016. Chính phủ đã cho Vinashin vay lại toàn bộ 750 triệu USD để phát triển ngành đóng tàu. Nay khoản vay này đã tiêu tán hết, nhưng Vinashin không có khả năng trả nợ, và hồ sơ vụ này đã “khép lại”. Chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành nói rằng giao toàn bộ 750 triệu USD cho Vinashin là “lỗi cực kỳ lớn”.

Năm 2010, chính phủ phát hành 1 tỷ USD trái phiếu, kỳ hạn 10 năm, lãi suất 6,75%/năm tại sở giao dịch CK Singapore. Chính phủ đã cho các tập đoàn dầu khí, điện lực, Vinalines vay lại. Số  tiền này cũng bị “nuốt chửng” như Vinashin. Năm 2014, chính phủ định phát hành 1 tỷ USD trái phiếu, nhưng lần này không thành. Cuối năm 2015, chính phủ lại một lần nữa định phát hành 3 tỷ USD trái phiếu, nhưng đến giữa 2016 thì kế hoạch này phá sản.

Đến năm 2017, món nợ Vinashin vẫn còn gần như nguyên vẹn, và trách nhiệm trả nợ chuyển sang chính phủ ông Nguyễn Xuân Phúc. Vào quý 1/2017 chính phủ lại “kêu trời” vì nếu trả nợ cho Vinashin trong 10 năm tới bằng tiền dự phòng ngân sách (như tiền lệ), thì phải có 63,2 ngàn tỷ đồng. Nay lấy đâu ra số tiền khổng lồ nói trên? Vinashin (nay là SBIC) đang ăn vạ chờ Bộ Tài chính xử lý, trong khi Bộ Tài chính phải đối phó với bội chi ngân sách khổng lồ, không biết lấy đâu ra tiền để nuôi hai bộ máy khổng lồ của đảng và chính phủ…

Bài học PVN

Dầu khí là ngành mũi nhọn, đóng góp nhiều nhất cho GDP (trước đây là 24%). Vì vậy PVN luôn đươc ưu tiên cao nhất và có nhiều đặc quyền nhất (nên rất khó kiểm soát/giám sát). Tuy đơn giản chỉ cần hút dầu thô lên bán, nhưng tại sao PVN và các công ty con vẫn thua lỗ? Phải chăng nhiệm vụ của PVN không phải chỉ đóng góp cho GDP, mà còn phải “nuôi” lãnh đạo (và nhóm lợi ích). Vì vậy, nhóm nào lên cầm quyền cũng phải nắm PVN. 

Ngày 27/4/2017, UBKTTW đề nghị xem xét kỷ luật uỷ viên BCT Đinh La Thăng. Luật sư Trần Quốc Thuận (nguyên Phó Chủ nhiệm VP Quốc hội) cho rằng đây là lần đầu tiên trong lịch sử UBKTTW đề nghị xem xét kỷ luật một Ủy viên BCT (đương chức). Nhưng điều còn bất bình thường hơn là tại sao một cán bộ mắc nhiều sai phạm như vậy, nhưng lại được bổ nhiệm giữ chức vụ cao hơn. Cần phải làm rõ trách nhiệm của người bổ nhiệm.

Một điều đáng lưu ý nữa là trước đây, ông Đinh La Thăng đã từng được ca ngợi là “tư lệnh” năng động, táo bạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong công tác. Ông Vũ Mão (và nhiều người khác) đã từng khen Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng hết lời, “Tôi hoan nghênh và ủng hộ những việc làm thể hiện tư duy, phong cách mạnh mẽ của của Bộ trưởng Đinh La Thăng”. (VietnamNet, 11/2011). Vậy những vị đó nay nói gì?

Báo cáo tài chính của PVN (năm 2010) đánh giá cao “thành tích” của ông Đinh La Thăng. Thông báo của BCHTW số 148-TB/TW, về tình hình hoạt động của PVN trong 7 năm (2007-2014) cũng đánh giá cao “Ngành Dầu khí đã phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện cả về chiều rộng và chiều sâu, trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng…”.

Nhưng nay UBKTTW kết luận là thời kì 2009-2011 ông Đinh La Thăng đã mắc phải các khuyết điểm như: “Đầu tư phân tán, dàn trải; thiếu kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các dự án ở thời kỳ làm lãnh đạo Tập đoàn, dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp… Chịu trách nhiệm khi ký ban hành Nghị quyết 233/NQ-ĐU, ngày 17/3/2009 của Đảng uỷ Tập đoàn PVN có nội dung không phù hợp với quy định pháp luật…” Nếu trước đây BCHTW đã đánh giá sai thì nay những người có liên quan trong vụ việc này có chịu trách nhiệm không?

Trong một mô hình kinh tế (và thể chế) bất bình thường như hiện nay, thì việc phân định đâu là lỗi của cá nhân (ông Đinh La Thăng) và đâu là lỗi của hệ thống, là một việc khó nhưng cần làm rõ. Nếu “đánh chuột sợ vỡ bình” thì làm sao chống được tham nhũng? Nếu đã truy cứu trách nhiệm của ông Đinh La Thăng tại PVN, thì cũng phải truy cứu trách nhiệm những ai đã quyết định cho PVN đầu tư vào dự án Dung Quất và đầu tư sang Venezuela. Chỉ vì những lý do chính trị hồ đồ mà họ đã gây tổn thất nặng nề cho ngân sách (1,8 tỉ USD) trong tình hình tài chính khó khăn hiện nay. Vậy ai phải chịu trách nhiệm về những tổn thất này?

Cùng với ông Vũ Huy Hoàng và Trịnh Xuân Thanh, ông Đinh La Thăng khó thoát được tội, vì đã tìm cách tẩu tán 7 tỷ USD tiền lãi do chênh lệch giá bán dầu khí từ những năm 2009-2011. Chính ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Vũ Huy Hoàng đã phát hiện ra khoản tiền lãi “trời cho” như vô chủ này (do giá dầu tăng vọt từ 50 USD lên 140 USD/thùng). Tuy ông Trịnh Xuân Thanh cũng biết, nhưng chỉ có ông Đinh La Thăng và trợ lý là Vũ Đức Thuận mới biết cụ thể. Ông Thăng đã trình ông Nguyễn Tấn Dũng duyệt hàng loạt dự án ma để tẩu tán khoản tiền khổng lồ đó, mà tổng công ty PVC của ông Trịnh Xuân Thanh là đầu mối.

Thay lời kết

Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước 3 nguy cơ có thể cản đường đổi mới: Thứ nhất, đồng tiền Việt Nam có thể bị mất giá từ 4% đến 5% trong năm 2017. Thứ hai, tăng trưởng thương mại và đầu tư toàn cầu tiếp tục sụt giảm, ảnh hưởng đến thương mại và thu hút FDI của Việt Nam. Thứ ba, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế với các FTA mới đang gặp nhiều khó khăn, có thể làm suy giảm động lực cải cách thể chế của Việt Nam.

Tăng trưởng thực sự của Viêt Nam hiện nay chỉ bằng 5% (theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh). Thảm hoạ môi trường biển do nhà máy Formosa Vũng Áng gây ra từ tháng 4/2016 đến nay làm cho hàng trăm ngàn ngư dân phá sản. Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước, bị hạn hán và ngập mặn nặng nề, làm sản xuất lúa gạo bị tổn hại nghiêm trọng. Về chăn nuôi, giá heo giảm xuống mức kỷ lục hiện nay, đang làm nông dân điêu đứng.

Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cả khủng hoảng kinh tế lẫn xã hội và chính trị. Không phải chỉ có dân chúng mất niềm tin, doanh nghiệp hoang mang, mà cả cán bộ cao cấp cũng nhấp nhổm chuồn ra nước ngoài (mỗi khi bị truy cứu trách nhiệm). Hội nghị TW5 sẽ mở màn cho một đợt thanh trừng mới, đẩy tranh giành quyền lực lên một tầm cao mới. Nhưng nếu không cải cách thể chế (chính trị) thì không thể tránh được khủng hoảng chính trị.

Muốn chống tham nhũng, trước hết phải kiểm soát quyền lực (bằng tam quyền phân lập). Thứ hai là phải tư hữu hoá đất đai và tài sản công. “Đánh chuột sợ vỡ bình” là một nghịch lý chết người do thể chế hiện nay đang làm hệ thống phân liệt. Bắt xong sâu này sẽ có sâu khác, nếu cái lồng ấp sâu vẫn còn nguyên. Diệt xong hổ này sẽ có hổ khác nếu nguyên nhân sinh ra và nuôi dưỡng hổ báo vẫn còn. Đã đến lúc phải dũng cảm thay đổi thể chế (thậm chí phải thay bình mới) thì may ra mới giải được nghiệp chướng hiện nay để thoát hiểm. Xét cho cùng, nguy cơ của dân tộc Việt Nam không phải chỉ là “thù trong” mà còn là “giặc ngoài”.  Vì vậy, nếu không sớm dẹp được “thù trong”, thì làm sao có thể chống được “giặc ngoài”?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét