Theo phân tích mới nhất của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nợ của
3.200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9
triệu tỉ đồng. (Ảnh minh hoạ)
Tương lai phá sản của nhiều tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước
là rất cận kề, sau vài động thái mới nhất của Chính phủ và Bộ Tài chính liên
quan đến quốc nạn nợ công.
Nợ công 210% GDP !
Trước tết Nguyên đán năm 2017, Bộ Tài chính đã đưa dự thảo của
Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) ra công luận để lấy ý kiến rộng rãi. Có lẽ nội
dung đáng chú ý nhất của bản dự thảo này là Bộ Tài chính - cơ quan chuyên sáng
tạo ra các sắc thuế bổ đầu dân để vun vén cho ngân sách - đã không chấp nhận
đưa các khoản vay nợ nước ngoài của tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vào khái
niệm nợ công quốc gia. Trong khi đó, loại nợ này lại là một trong 5 định nghĩa
về nợ công của cơ quan thống kê của Liên hiệp quốc.
Nhưng tại sao Luật về nợ công của Việt Nam lại như cố tình
không gộp cả phần nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước?
Theo phân tích mới nhất của Tiến sĩ Vũ Quang Việt vào đầu
năm 2017 ngay trên một tờ báo nhà nước là Thời báo Kinh tế Sài Gòn, nợ của
3.200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9
triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la Mỹ), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỉ đồng mà Bộ
Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy
năm 2016, nợ của doanh nghiệp nhà nước là 324 tỉ đô la Mỹ, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước
sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ
đô la Mỹ, bằng 210% GDP.
Trước đây vào năm 2011, ngay một chuyên gia nhà nước là ông
Vũ Đình Ánh đã phải thừa nhận nợ công đã lên đến 98% GDP.
Nhưng cũng vào năm 2011, nợ công quốc gia đã được chính phủ
Nguyễn Tấn Dũng “ấn định” chỉ vào khoảng 55% GDP. Lý do hết sức dễ hiểu là nếu
tống nợ vay nước ngoài của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước vào khái niệm nợ
công quốc gia, nợ công sẽ vọt lên ít nhất 200% GDP ngay tại thời điểm năm 2011
- lúc tỷ lệ lạm phát trên báo cáo đã xấp xỉ 20%, còn Chính phủ bắt buộc phải
ban hành nghị quyết về “thắt lưng buộc bụng” sau một thời gian dài “đầu tư liên
tục, đầu tư ồ ạt cho đến lúc sụp đổ” như một triết lý cảnh báo của chuyên gia
phương Tây đối với trường hợp Trung Quốc và Việt Nam.
Còn từ năm 2011 đến năm 2015 và với đà vay mượn nước ngoài
tăng tiến không ngừng nghỉ, nợ công chắc chắn đã tăng và nợ vay của các tập
đoàn, doanh nghiệp nhà nước cũng tăng chóng mặt (cho tới nay vẫn chưa có con số
thống kê chính thức nào về số nợ vay nước ngoài phát sinh của các tập đoàn,
doanh nghiệp nhà nước trong khoảng thời gian 4-5 năm qua).
Vào thời điểm sát Đại hội XII cuối năm 2015, chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng vẫn cố “khuôn” nợ công quốc gia chỉ khoảng 59% GDP, để từ đó vẫn đưa
ra những lời hô hào “còn dư địa để vay nước ngoài”, vẫn tiếp diễn những ca khúc
về các dự án khổng lồ “đường sắt cao tốc Bắc Nam” với vốn đầu tư lên đến hơn 50
tỷ USD, “đường bộ cao tốc Bắc Nam” với giá trị ban đầu lên đến 10 tỷ USD, và cả
nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận với giá trị đầu tư phát sinh tuy chưa làm gì cả
đã lên đến 20 tỷ USD…
Chỉ đến sau Đại hội XII, khi ông Nguyễn Tấn Dũng bất ngờ
“ngã ngựa”, không những bị loại khỏi Bộ Chính trị mà còn chẳng trụ nổi trong
Ban Chấp hành trung ương đảng, làn sóng “mở miệng” của giới quan chức “còn đảng
còn mình” mới thấp thoáng. Theo đó, tỷ lệ nợ công quốc gia dần được “điều chỉnh”
nhích lên và gần đây nhất là đã “sát ngưỡng nguy hiểm 65% GDP”.
‘Nếu tính đủ, nợ công đã vượt trần’
Trong thực tế, nợ công quốc gia lớn hơn nhiều so với các báo
cáo vừa tô hồng vừa đậm vẻ dối trá.
Vào năm 2016, ông Lê Đăng Doanh, một trong những tiếng nói
phản biện hiếm hoi của giới chuyên gia nhà nước, đã phải đưa ra vài phép tính
tiểu học để tính toán rằng nợ công quốc gia trong thực tế đã đạt đến hàng trăm
phần trăm GDP chứ không thể ít hơn. Cùng lúc, nhiều ý kiến khác đã yêu cầu
Chính phủ phải điều chỉnh Luật về Nợ công và phải đưa những khoản vay nợ khổng
lồ của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vào luật này.
Không phải ngẫu nhiên mà vào đầu năm 2017, Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc đã phải thốt ra một đánh giá chưa từng có tiền lệ: “Nếu tính đủ, nợ
công đã vượt trần”.
Tuy thế, làm sao để Bộ Tài chính và chính phủ Việt Nam có đủ
can đảm để “tính đủ”? Và cũng bởi làm thế nào để một chính phủ đang bị coi là
“đổ vỏ” cho chính phủ trước phải “nai lưng” ra trả nợ cho những khoản nợ vay mà
chính phủ trước đã bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhà nước?
Trước đây và đặc biệt dưới thời của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng, việc Chính phủ bảo lãnh cho tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vay vốn của
nước ngoài diễn ra tràn lan và vô tội vạ. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp nhà
nước làm ăn kém hiệu quả, có ít nhất 30% số doanh nghiệp nhà nước luôn phải đối
mặt với nguy cơ phá sản.
Còn sang thời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, vấn đề bảo lãnh
vay nợ nước ngoài cho doanh nghiệp nhà nước gần như đã bị Chính phủ đóng lại bởi
số nợ công tăng vượt mặt. Theo tinh thần mới nhất mà Thủ tướng Phúc họp với
ngành tài chính và các ngành khác, nếu doanh nghiệp nhà nước không trả được nợ
vay nước ngoài thì sẽ phải tự phá sản chứ không thể trông đợi vào sự cứu giúp của
Chính phủ.
“Phán quyết” mới nhất của Chính phủ là cơ quan này sẽ bảo
lãnh cho doanh nghiệp nhà nước vay nợ nước ngoài chỉ đúng 1 tỷ USD trong năm
2017, giảm mạnh so với mức bảo lãnh 2,5 tỷ USD trong năm 2015 và 1,5 tỷ USD
trong năm 2016.
Hẳn nhiên đây là tình thế tất yếu bởi ngân sách quốc gia hiện
thời là cực kỳ eo hẹp, thu không đủ chi và hàng năm còn phải trả nợ nước ngoài
hàng chục tỷ USD.
Nếu phải lo cả “nợ riêng” của các tập đoàn và doanh nghiệp
nhà nước, Chính phủ sẽ rất dễ chết chìm trong biển nợ công.
Đi đôi với thái độ kiên định không đưa nợ vay nước ngoài của
các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vào Luật Quản lý nợ công (sửa đổi), Bộ
Tài chính còn “tố” rằng nợ công đã tăng đến 14,8 lần trong 15 năm qua. Thậm chí
vào đầu năm 2017, Thủ tướng Phúc đã lần đầu tiên phải dùng đến một cụm từ đặc
biệt nhạy cảm chính trị mà trước đó không một cấp lãnh đạo nào dám sử dụng: “sụp
đổ tài khóa quốc gia”.
Hẳn là thế, bội chi ngân sách phi mã đến 6,6% vào năm 2013
dưới thời Thủ tướng Dũng đã tạo nên dấu mốc kỷ lục cho toàn bộ một triều đại
tàn phá đất nước đến suy kiệt. Ngay cả năm điều hành đầu tiên của Thủ tướng
Phúc vẫn phải “chấp nhận” bội chi ngân sách ở con số ít nhất là 254 ngàn tỷ đồng,
tương ứng với tỷ lệ bội chi 5,5% GDP, trong khi dư luận cho rằng thực tế bội
chi còn cao hơn hẳn.
Sẽ phá sản và ‘bắt doanh nghiệp nhà nước’
Bối cảnh ngân sách cạn kiệt, cụ thể là chẳng còn khoản kết
dư đáng kể nào, cũng là lúc đang có nhiều dấu hiệu cho thấy nợ công sắp “vỡ” và
Chính phủ không còn khả năng trả nợ thay cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước.
Từ vài năm qua, đã xuất hiện một ít doanh nghiệp nhà nước bị
phá sản, tuy chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với doanh nghiệp tư nhân.
Nhưng năm 2017 và những năm tiếp theo sẽ khác hẳn. Doanh
nghiệp nhà nước sẽ “đồng hành” với tình trạng khốn khó của doanh nghiệp tư nhân.
Không khó để dự đoán rằng một khi Chính phủ gần như phủi tay
trước nhiều món nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước,
ngay trong năm 2017 sẽ xuất hiện những cái tên doanh nghiệp nhà nước bắt buộc
phải phá sản, thậm chí còn phải đối mặt với vòng lao lý.
Và sẽ ập đến cả một phong trào “bắt doanh nghiệp nhà nước”,
đi đôi với chiến dịch “bắt ngân hàng” đã, đang và sẽ gây náo loạn…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét