Chính phủ Donald Trump chắc sẽ
không đụng tới việc xóa bỏ Obamacare trong năm nay, có thể cả năm tới, sau khi
thất bại với dự luật cải tổ y tế của Dân Biểu Paul Ryan. Ðây là lúc người dân Mỹ
có thể bình tĩnh suy nghĩ về vấn đề bảo hiểm y tế mà không giữ tinh thần đảng
phái nữa. Khi hệ thống bảo hiểm y tế gắn thêm nhãn hiệu Obama hay Trump, người
ta dễ vì yêu người này, ghét người kia mà suy nghĩ thiên lệch.
Ðể bắt đầu, chúng ta nhắc lại một
câu hỏi căn bản: “Tại sao chúng ta cần bảo hiểm?” như tựa đề một bài trong mục
này tuần trước.
Người ta cần mua bảo hiểm vì những
rủi ro không thể nào đoán trước được. Một hiện tượng tự nhiên là trong số những
người mua bảo hiểm, thế nào cũng có cảnh người này “trợ cấp” người kia. Một người
trả hàng ngàn Mỹ kim một năm mua bảo hiểm xe hơi, suốt mười năm có thể không được
hãng bảo hiểm bồi thường một đồng nào cả. Tiền họ đóng góp được chia cho các
người đã gặp tai nạn! Không ai oán hận, ganh tị khi nghĩ mình đã “trợ cấp” những
người lái ẩu!
Theo nguyên tắc thị trường bảo hiểm,
những người “rủi ro cao” thường phải trả giá đắt hơn. Vì thế, ai lái xe đã gặp
nhiều tai nạn, dù mình không gây ra, phải đóng bảo hiểm cao hơn. Người già phải
trả ít hơn người trẻ, vì họ thường lái xe thận trọng hơn.
Hệ thống An Sinh Xã Hội (Social
Security) là một chương trình bảo hiểm lương bổng cho người già về hưu, không
hoàn toàn theo nguyên tắc đó. Cả nước Mỹ ai đi làm đều phải đóng thứ bảo hiểm
này, một “Thuế An Sinh Xã Hội” bắt buộc. Trong hệ thống An Sinh Xã Hội, người
trẻ tuổi và lương cao phải “trợ cấp,” góp tiền cho quỹ bảo hiểm của chính phủ để
trả tiền hàng tháng cho những người đã về hưu, lương thấp, hoặc bị thương tật.
Người chết trước khi đến tuổi về hưu, không được lãnh đồng nào cả. Nhưng không
ai đoán được số mạng 100%. Cuối cùng ai cũng chấp nhận đóng thứ “thuế” này vì
khi sinh ra không ai biết chắc mình sẽ sống đến bao nhiêu tuổi. Hơn nữa, mọi
người đồng ý rằng những ai già yếu, nghèo, hoặc không may mất sức làm việc,
đáng được xã hội trợ giúp.
Ở nước Mỹ, gần một nửa dân số được
chính phủ trợ cấp khi mua bảo hiểm y tế, dù họ không biết. Ðó là những người
làm cho các xí nghiệp lớn, chủ nhân góp phần đóng bảo hiểm y tế cho họ – một
hình thức trả thêm lương. Chính phủ bớt thuế cho chủ nhân trên những khoản đóng
góp đó. Chính phủ bị mất một khoản thu quan trọng, nhưng vẫn có tiền chi tiêu
vì mọi người đều đóng các thứ thuế khác. Có thể coi nhân viên các xí nghiệp đó
“được tăng lương” mà không phải đóng thuế trên số lợi tức được hưởng thêm này.
Ngược lại, những người làm cho các xí nghiệp nhỏ hay tự lập cũng cần mua bảo hiểm
y tế; nhưng họ không được giảm bớt thuế một đồng nào cả. Có thể nói rằng loại
người thứ hai này, một nửa dân số Mỹ không làm cho các xí nghiệp lớn, đã trợ cấp
cho những người làm việc trong các công ty lớn!
Trước khi có luật y tế của cựu Tổng
Thống Obama, thị trường bảo hiểm y tế cho những người thuộc loại thứ hai hoạt động
giống như thị trường bảo hiểm xe hơi. Những người “rủi ro cao” sẽ phải trả giá
đắt hơn, như người lớn tuổi, phụ nữ, và người đã có bệnh sẵn. Vì họ sẽ gây tốn
kém cho công ty bảo hiểm. Loại người thứ nhất, nếu đang có bệnh mà mất việc,
gia nhập thị trường của loại thứ hai, họ phải trả giá cao hơn những người chưa
bị bệnh.
Nhưng khi mới ra đời, hay khi lớn
lên bắt đầu kiếm việc, không ai biết chắc mình sẽ thuộc loại người thứ nhất hay
thứ hai. Mà cũng không ai biết trước mình ở một trong loại đó bao lâu, bao giờ
thì mất việc hoặc may mắn có việc làm cho một công ty lớn. Những người đang làm
cho các công ty lớn có biết chắc mình sẽ giữ được việc làm suốt đời hay không?
Họ vẫn sống với rủi ro mất việc, có bảo hiểm lương bổng nhưng không được thứ bảo
hiểm y tế nào che chở mãi mãi.
Ðạo luật gọi là Obamacare tìm
cách sửa chữa tình trạng trên, bằng cách đặt ra một số giới hạn trên hoạt động
của các công ty bảo hiểm. Nhà bảo hiểm không được bắt người đang có bệnh trả tiền
cao hơn những người chưa bệnh; không được tính giá cho phụ nữ cao hơn đàn ông;
giá bảo hiểm cho người già không được cao hơn ba lần người trẻ, vân vân. Ngoài
ra luật lệ bắt các công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm chữa trị tối thiểu mười
khoản, như săn sóc các sản phụ, các hài nhi, trị bệnh tâm thần, vân vân.
Ðạo luật Obama khiến cho thị trường
bảo hiểm y tế khác hẳn bảo hiểm xe hơi. Những người “rủi ro cao” vì đang có bệnh
hay tuổi đã cao, cũng trả cùng một giá như người ít rủi ro! Phụ nữ, có ngày sẽ
sanh đẻ, cũng được trả cùng một giá như đàn ông! Một thanh niên cũng trả giá
như các ông bà lớn tuổi, vì công ty bảo hiểm không được tăng giá cao quá trên
những người già yếu.
Nếu được tự do lựa chọn thì các bạn
trẻ tin rằng mình rất khỏe mạnh sẽ không muốn tốn tiền mua bảo hiểm. Chỉ những
người rủi ro cao mới mua. Khi đó, các hãng bảo hiểm sẽ phải tăng giá, giống như
khi họ chỉ bán được bảo hiểm xe hơi cho những người “lái ẩu” và không may mắn!
Với giá cả tăng lên, những người cần bảo hiểm nhất cũng khó đủ tiền mua! Nghĩa
là, nếu các thanh niên rút lui thì cả thị trường bảo hiểm sẽ bế tắc không hoạt
động được nữa. Cho nên đạo luật Obama buộc mọi người đều phải mua bảo hiểm; khiến
cho nhiều người bất mãn, nghĩ rằng mình bị bóc lột, góp tiền trợ cấp cho những
người già hoặc yếu hơn mình.
Những người ủng hộ Obamacare muốn
bảo hiểm y tế cũng tương tự An Sinh Xã Hội, mọi người đều đóng góp, người trẻ
trợ cấp người già, người chết sớm trước tuổi về hưu đã góp tiền nuôi người sống
lâu. Ðằng sau chủ trương đó là một quan niệm coi xã hội phải bảo đảm mọi người
bị bệnh, bị thương đều được chăm sóc, người khỏe mạnh giúp người yếu đuối.
Những người chống đạo luật y tế
Obama phản đối đường lối bắt buộc này, và phản đối tình trạng chính phủ trợ cấp
cho những người nghèo để họ có thể mua bảo hiểm y tế. Họ muốn thị trường bảo hiểm
y tế giống như bảo hiểm xe hơi, ai nhiều rủi ro thì phải trả giá cao hơn.
Họ nhấn mạnh rằng những giới hạn,
ràng buộc áp đặt trên các công ty bảo hiểm là đi ngược với nguyên tắc kinh tế tự
do, thuận mua vừa bán. Ðối với họ, đặt ra những điều cấm đoán công ty bảo hiểm
hay bắt buộc ai cũng phải mua bảo hiểm là vi phạm quyền lựa chọn tự do của người
bán cũng như người mua, hậu quả là thị trường bị lệch lạc.
Hai quan niệm trên sẽ còn tiếp tục
đối chọi nhau trong những cuộc thảo luận về bảo hiểm y tế trong nhiều năm sắp tới.
Không thể quả quyết quan niệm nào là đúng hoàn toàn hoặc sai hoàn toàn. Khi biết
như vậy, người dân có thể suy nghĩ, lựa chọn một cách khách quan, dùng lý trí
mà xét đoán. Người ta sẽ không để cho các tình tự yêu, ghét và tinh thần đảng
phái ảnh hưởng trên lý trí. Người theo đảng Dân Chủ không cần nghĩ hễ điều gì
ông Trump làm thì phải chống, người ủng hộ đảng Cộng Hòa cũng không còn thấy những
luật lệ do ông Barack Obama đưa ra đều sai lầm. Họ sẽ không bị các nhà chính trị
mê hoặc bằng các khẩu hiệu kích thích tình tự nữa. Khi đó, cuộc thảo luận về bảo
hiểm y tế sẽ chỉ dựa trên các dữ kiện khách quan, những phân tích thực tế so với
lý tưởng Và người ta sẽ phán xét từng điều khoản của các dự luật y tế, dựa trên
thực tế cũng như lý tưởng. Họ sẽ dễ chấp nhận thay đổi từng phần trong hệ thống
y tế, không cần biết thay đổi đó do đảng nào đề nghị.
Cuối cùng, dân chúng Mỹ sẽ lựa chọn
qua lá phiếu. Người dân biết họ phải lựa chọn giữa hai quan niệm xung khắc, và
biết cả hai đều có giá trị tùy theo cách nhìn cuộc đời của mỗi người, không
quan niệm nào hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai. Trong chế độ dân chủ ai cũng phải
kính trọng ý kiến đối nghịch với mình. Hệ thống bảo hiểm y tế tương lai sẽ tìm
cách dung hòa giữa lý tưởng và thực tế, chắc sẽ thay đổi từ từ, chậm chạp chứ
không thể làm vội vã được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét