Ông Bá Ngọc có công bố một tài liệu lịch sử đặc biệt trên Tạp
chí XƯA & NAY, số 438, tháng 10.2013, trong bài viết có nhan đề là « Ban thẩm
tra vụ việc Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế Cộng sản ».
Tạm để sang một bên lối viết sử kiểu cộng sản chủ nghĩa để tập
trung vào một số chi tiết và sự việc được trình bày trong bài này, ta có thể thấy
rõ hơn về một vài điểm ở nhân vật Hồ Chí Minh và lịch sử đảng cộng sản Việt
Nam.
Tài liệu mà Bá Ngọc tìm được trình bày một sự kiện xảy ra với
Nguyễn Ái Quốc vào thời kỳ ông đến Liên Xô lần thứ ba trong đời hoạt động của
mình, sau khi bị bắt giam ở Hồng Kông, từ 1934 - 1938. Sự kiện đó là Nguyễn Ái
Quốc trở thành đối tượng điều tra của Quốc tế Cộng sản (QTCS). Tháng 2/1936,
QTCS thành lập một Ban thẩm tra để xem xét trường hợp Nguyễn Ái Quốc, vì các lý
do :
-Ban lãnh đạo Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSĐD)
gửi cho QTCS một lá thư viết ngày 20/4/1935 trong đó kết tội Nguyễn Ái Quốc đã
phạm những sai lầm trong hoạt động cách mạng (xin xem chi tiết trên báo Diễn
Đàn theo đường link:
https://www.diendan.org/tai-lieu/ban-tham-tra-vu-viec-nguyen-ai-quoc-o-quoc-te-cong-san
)
-Vì sao Nguyễn Ái Quốc chỉ bị kết án nhẹ nhàng có hai năm tù
giam, vì sao sau hạn tù có thể trốn khỏi mật thám Pháp một cách dễ dàng, và bằng
cách nào sang được Nga ?
Ban thẩm tra đã làm việc và dẫn tới hai kết luận : 1/Nguyễn
Ái Quốc đã phạm một số sai lầm trong hoạt động bí mật và cần khắc phục. 2/Không
tìm ra chứng cứ về sự thiếu trung thành chính trị ở Nguyễn Ái Quốc. Vì thế hồ
sơ Nguyễn Ái Quốc được huỷ bỏ.
Ông Bá Ngọc có các phân tích và kết luận của riêng ông, như
ông đã trình bày trong bài. Đối với cá nhân tôi, tài liệu này giúp tôi trả lời
phần nào một vài trong số rất nhiều câu hỏi về nhân vật được xem là phức tạp
vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại :
-Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cộng sản là một con đường giải
phóng dân tộc (nghĩa là một phương tiện giúp giải phóng dân tộc) hay là một mục
tiêu tối hậu mà cả dân tộc phải hướng tới ?
-Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa yêu nước/ chủ nghĩa
dân tộc, hay là một người cộng sản đúng nghĩa, hay là trong Hồ Chí Minh kết hợp
cả hai con người đó, và còn kết hợp thêm cả con người nho giáo kiểu Khổng Tử ?
Câu hỏi này thoạt nghe có vẻ như thừa, sau tất cả các nghiên
cứu đã công bố về Hồ Chí Minh, đặc biệt là sau vô số công trình của các nhà
nghiên cứu quốc tế. Thế nhưng thực tế hiện nay đòi hỏi phải đặt lại câu hỏi đó,
bởi vì một bộ phận người Việt dường như chỉ muốn nhìn Hồ Chí Minh như một người
cộng sản, và duy nhất ở khía cạnh cộng sản. Ngược lại, không phải là không có
người nghĩ rằng Hồ Chí Minh « phi cộng sản », và cho rằng cộng sản, đối với Hồ
Chí Minh, chỉ như là cái áo che giấu cái thực chất là cách mạng dân tộc. Lại có
những người cho rằng Hồ Chí Minh bất đắc dĩ mà trở thành cộng sản. Mỗi bên đều
tìm thấy trong lịch sử những yếu tố làm căn cứ cho suy diễn của mình.
Chưa lúc nào mà Hồ Chí Minh và di sản Hồ Chí Minh lại gây
tranh cãi như hiện nay. Điều này là bình thường, và có thể nói là đáng mừng. Bởi
vì ít ra chúng ta cũng tự cho phép mình không đồng ý với nhau, tức là cho phép
tồn tại tình trạng đa nguyên trong suy nghĩ. Chúng ta cũng hiểu rằng không thể
tự cho phép mình áp đặt nhận định chủ quan của mình lên người khác, càng không
thể bắt người khác phải tin theo mình một cách vô điều kiện.
Nhân đây cũng xin một lần giải thích rằng đối với những người
làm nghiên cứu như tôi, những người lấy việc tìm hiểu sự thật làm mục đích, lấy
sự công bằng làm phương châm trong đánh giá, thì chỉ có sử liệu, sự kiện, căn cứ,
bằng chứng, nhân chứng, và phân tích dựa trên các căn cứ và bằng chứng ấy, mới
có khả năng thuyết phục. Và sẽ không chấp nhận bị chi phối bởi bất kỳ một áp lực
nào (dù là áp lực của bạo lực chính trị hay là áp lực của tin đồn, của dư luận,
của bình luận…).
Vụ thẩm tra năm 1936 cho phép phần nào nhận diện sự lựa chọn
của Nguyễn Ái Quốc vào thời điểm ấy, xin nhắc lại, vào thời điểm các thập kỷ
1920 và 1930. Ở đây các phân tích của tôi chỉ dựa vào bản báo cáo của Vera
Vasilievna, đoạn trích được dịch ở trong bài, chứ không dựa vào phần phân tích
và bình luận của Bá Ngọc.
Dưới đây là trích đoạn từ bản giải trình của Vera
Vasilievna, theo bản dịch của Bá Ngọc :
“ Nguyễn Ái Quốc là người cộng sản Đông Dương đầu tiên, là
người rất có uy tín giữa những người cộng sản, là người đã tổ chức các nhóm cộng
sản đầu tiên trên cơ sở đó để thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Khi hợp nhất
Đảng, Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là đại diện của Quốc tế Cộng sản, mặc dầu Quốc
tế Cộng sản chưa trao ủy quyền. Trong thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc
đã thành lập Ủy ban lâm thời và đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một
cách máy móc các nhóm cộng sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp
địa chủ và tư sản... Do đó, uy tín của đồng chí bị giảm sút, đặc biệt, trong đội
ngũ những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị tháng 10-1930 của
Đảng Cộng sản Đông Dương đã nghiêm khắc phê phán những khuyết điểm của đồng
chí. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đảm nhận công việc liên lạc viên, công tác tại
Trung Quốc và Hồng Kông. Trong các bức thư từ Ban lãnh đạo Đảng phản ánh tâm trạng
không bằng lòng của Nguyễn Ái Quốc, về công việc của một liên lạc viên bình thường
mà luôn thể hiện vai trò lãnh đạo; đã đưa ra những ý kiến, ghi chú, nhận xét của
mình trong các chỉ thị, thông báo của Quốc tế Cộng sản và cản trở những thông
tin từ đất nước gửi Quốc tế Cộng sản.
“ Ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Hồng
Công và bị kết án 2 năm tù giam. Trong thời kỳ này, chúng tôi (Vaxiliepna) liên
hệ với luật sư bào chữa thông qua Tổ chức cứu trợ những người cộng sản bị nạn của
Pháp, gửi tiền để thuê luật sư bào chữa và luật sư đã tổ chức cho Nguyễn trốn
thoát, việc này đã được luật sư nói rõ trong thư gửi chúng tôi. Một thời gian
sau đó, có tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết trong tù vì lao phổi. Năm 1933, xuất
hiện tin rằng Nguyễn Ái Quốc không chết mà được thả tự do và biến mất.
“ Vào tháng 7-1934, Nguyễn Ái Quốc đến Matxcơva. Theo lời kể
của Nguyễn Ái Quốc thì khó xác định được vì sao trốn thoát khỏi mật thám Pháp một
cách dễ dàng sau án ngồi tù của mình, và vì sao chỉ bị kết án một cách nhẹ
nhàng vậy. Tôi đã nhiều lần đề nghị Nguyễn Ái Quốc trình bày bằng văn bản về
các việc liên quan đến bị bắt, bị kết án tù, được giải thoát và trở về với
chúng ta, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã không thực hiện. Chuyến trở về, theo Nguyễn
Ái Quốc kể thì do Vaillant-Couturier trong thời gian ở Trung Quốc đã tổ chức
giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng, tất cả những vấn đề này cần được thẩm tra kỹ lưỡng. Sau
khi đến đây, Nguyễn Ái Quốc được cử đi học tại Trường Mác - Lênin cho đến ngày
nay. Thống nhất với các đồng chí Mip và Côchenxky chưa thể nắm hết các hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc, mặc dầu chúng tôi biết rằng, Nguyễn luôn luôn kiên trì phấn
đấu. Nguyễn đã nhiều lần yêu cầu tôi trao đổi về việc tổ chức liên hệ với Đảng,
đặc biệt, rất quan tâm tới các chuyến đi công tác của các sinh viên, về việc họ
đi đâu và với những nhiệm vụ gì. Nguyễn rất khổ tâm và nóng lòng về việc không
được tham gia những nhiệm vụ bí mật. Trong mối quan hệ với các sinh viên, Nguyễn
luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người lãnh đạo, nhưng về lý luận tỏ ra
yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai sót trong quá trình trao đổi. Trong bản thân
Nguyễn chứa đựng nhiều tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ, những thứ đó có
thể chống lại ý nguyện của mình.
Trên đây là những dẫn chứng tôi đã trình bày. Nguyễn Ái Quốc
khi tự phê bình tỏ ra bình tĩnh và luôn luôn chấp nhận những tự chỉ trích đó.
Điểm lại những sự kiện và tư liệu, phải chăng cần khẳng định
vị trí đại diện trong Đảng của Nguyễn Ái Quốc. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc có thể
tham gia Đại hội (Quốc tế Cộng sản) như một đại biểu chính thức ”.
(trích báo cáo của Vaxiliepna)
Với câu đầu tiên trong trích đoạn này, Vasilievna khẳng định
một điều mà chúng ta đều đã biết : Hồ Chí Minh là người cộng sản Đông Dương đầu
tiên, là người có uy tín quốc tế và là người đã thành lập những tổ chức cộng sản
đầu tiên ở Đông Dương. Tuy nhiên, điều này chưa đủ để thoả mãn những người đặt
câu hỏi về việc chủ nghĩa cộng sản đối với Nguyễn Ái Quốc là mục đích hay
phương tiện.
Trong bản báo cáo, một số chi tiết cho thấy Nguyễn Ái Quốc
không hoàn toàn tôn trọng quy định và kỷ luật của QTCS. Chẳng hạn, ông tự nhận
mình là đại diện của QTCS trong khi chưa được QTCS uỷ quyền. Điều này cho thấy
đối với Hồ Chí Minh, việc thành lập ĐCSVN quan trọng hơn tất cả, và để có thể
thực hiện điều đó ông đã nhân danh là đại diện QTCS dù chưa được phép. Và ông
cũng không để cho QTCS nắm được hết các hoạt động của mình. Đáng chú ý hơn là
nhận định này của Vasilievna : « Trong thời gian hợp nhất Đảng, Nguyễn Ái Quốc
đã thành lập Ủy ban lâm thời và đã để xảy ra một số sai lầm như hợp nhất một
cách máy móc các nhóm cộng sản, không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp
địa chủ và tư sản ».
Xét theo các nguyên tắc của QTCS, Nguyễn Ái Quốc đã phạm sai
lầm. Nhưng trong thực tế, chính là nhờ « sai lầm » trong việc kết hợp với các tầng
lớp địa chủ và tư sản mà ĐCSVN mới có thể thu hút được quần chúng và những người
yêu nước, cho dù những người đó thuộc tầng lớp địa chủ hay tư sản. Dĩ nhiên, kết
hợp với giai cấp địa chủ và tư sản là đi ngược hoàn toàn với tư tưởng của
Lê-nin. Điều mà QTCS (đại diện là Vasilievna) cho là « máy móc », thì chính lại
là « sáng tạo » của Nguyễn Ái Quốc, nó cho phép hợp nhất các tổ chức cộng sản
manh mún lúc đó để tạo ra một đảng có thực lực lớn hơn, có điều kiện để phát
triển mạnh hơn. « Những người muốn giải phóng đất nước, cần phải thành lập một
đảng mạnh », câu này chính là bài học mà Phan Bội Châu truyền lại cho Nguyễn Tất
Thành từ những ngày đầu tiên đi tìm đường giải phóng quê hương.
Một chi tiết cần lưu ý trong tài liệu này là, mặc dầu Nguyễn
Ái Quốc là người thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập ĐCSVN, tuy nhiên,
ông không giữ chức vụ lãnh đạo trong tổ chức đảng. Nguyễn Ái Quốc không giữ vai
trò nào trong cấu trúc quyền lực của ĐCSVN giai đoạn từ tháng 2 đến tháng 10
năm 1930. Trong danh sách thành viên của Uỷ ban lâm thời không có tên ông, và người
được chỉ định giữ chức vụ Tổng bí thư là Trịnh Đình Cửu. Tại sao ? Điều này,
trong số các tài liệu mà tôi đã đọc tôi vẫn chưa tìm thấy một lý giải nào thoả
đáng, hơn nữa các tài liệu đều không đặt câu hỏi về việc này, trong khi điều đó
phản ánh một lô-gic không bình thường đối với người sáng lập đảng. Sau khi đảng
đổi tên thành ĐCSĐD, do bị chỉ trích vì các sai lầm, Nguyễn Ái Quốc chỉ còn giữ
vai trò là một liên lạc viên bình thường, đảm nhiệm công viêc liên lạc giữa
QTCS và các đảng cộng sản tại Đông Nam Á.
Tài liệu về vụ thẩm tra cho thấy rằng Nguyễn Ái Quốc, vào
lúc đó, không lệ thuộc vào các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản kiểu Lê-nin,
và đối với ông, đó chỉ là một phương tiện phục vụ cho công cuộc giải phóng dân
tộc. Nguyễn Ái Quốc « không phân định rõ ràng quan hệ với các tầng lớp địa chủ
và tư sản », bởi vì ông hiểu rằng muốn tạo sức mạnh để giải phóng đất nước cần
đoàn kết các giai cấp khác nhau trong xã hội. Đây là điểm khác biệt giữa Nguyễn
Ái Quốc và những người cộng sản được đúc khuôn từ lò Liên-Xô, được đào luyện
bài bản trong môi trường Xô-Viết và tuân thủ trung thành tư tưởng Sta-lin.
Có thể nhớ lại rằng ở đại hội Tour, 1920, Nguyễn Ái Quốc đã
gióng lên tiếng kêu trước đảng Xã hội Pháp: « Camarades, sauvez-nous ! » (Các đồng
chí, hãy cứu chúng tôi !). Tuy nhiên, rất nhanh chóng Nguyễn Ái Quốc nhận thấy
rằng các đồng chí cánh tả ở Pháp không cứu được Việt Nam thoát khỏi ách thuộc địa,
rằng các phong trào chính trị ở Pháp, kể cả đảng cộng sản Pháp, không quan tâm
đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Và chỉ sau một thời gian rất ngắn tham gia đảng
cộng sản Pháp, ông đã rời Paris để sang Nga năm 1923, nơi mà theo ông vấn đề
thuộc địa được coi là quan trọng.
Nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ lưu lại Nga chừng 2 năm, cuối
1924 ông rời Nga sang Trung Quốc. Tại sao ? Tại vì ở Nga, dù đó là cái nôi của
chủ nghĩa cộng sản thì ông cũng không thể thành lập các tổ chức chính trị của
Việt Nam. Thực tế cho thấy, chỉ mấy tháng sau, vào tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc
thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tại Quảng Châu, Trung Quốc,
tiền thân của ĐCSVN sẽ ra đời 5 năm sau.
Những gì mà QTCS vào năm 1936 xem là « sai sót » ở Nguyễn Ái
Quốc thì có thể không hẳn như vậy. Đối với QTCS là sai sót, nhưng đối với Nguyễn
Ái Quốc đó là những gì cần phải làm. Vasilievna nhận định : « Trong bản thân
Nguyễn chứa đựng nhiều tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ ». Điều này hoàn
toàn đúng. Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tàn dư cũ là điều mà Nguyễn Ái Quốc
lúc đó và Hồ Chí Minh sau này không bao giờ từ bỏ.
Nguyễn Ái Quốc không quan tâm nhiều đến vấn đề lý luận,
không giành thời gian cho lý luận về chủ nghĩa cộng sản, về cơ bản ông là người
hành động. Đấy là lý do khiến Vasilievna nêu nhận xét này : « Trong mối quan hệ
với các sinh viên, Nguyễn luôn cố gắng đóng vai trò là người thầy, người lãnh đạo,
nhưng về lý luận tỏ ra yếu kém và thường xuyên để xảy ra sai sót trong quá
trình trao đổi. » Sự yếu kém về lý luận của Nguyễn Ái Quốc là sự thật, chứ
không phải do ông giả vờ yếu kém. Có nhiều lý do cho sự yếu kém này, trong đó
có một lý do căn bản : ông chọn hoạt động thực tiễn và coi lý luận Marx-Lê nin
chỉ là một công cụ, một vũ khí, một con đường để thực hiện giải phóng dân tộc.
Ít ra là ở thời điểm 1920-1930 là như vậy. Sự phát triển về sau của chủ nghĩa
Marx-Lê nin trong tư tưởng Hồ Chí Minh như thế nào, vấn đề này sẽ được đề cập tới
một dịp khác. Dù sao, Võ Nguyên Giáp có thuật lại trong cuốn « Đường tới Điện
Biên Phủ » lời của Hồ Chí Minh : "Chủ nghĩa Mác - Lênin là cái gì lợi cho
cách mạng thì làm !". Câu này của Hồ Chí Minh cho thấy tính chất « phương
tiện » của chủ nghĩa Mác-Lê nin trong quan niệm của ông. Tuy nhiên, có vô số dẫn
chứng khác cho thấy Hồ Chí Minh tôn chủ nghĩa Marx-Lê nin lên thành kinh thánh,
thành kim chỉ nam cho hành động. Vấn đề rất phức tạp và không thể đơn giản hoá
trong một câu trả lời mang tính chất một chiều.
Xin dẫn ra đây thêm một ví dụ về phía những người nghĩ rằng
chủ nghĩa cộng sản, thậm chí đảng cộng sản, với Hồ Chí Minh, là một phương tiện.
Jean Lacouture, trong cuốn sách xuất bản năm 1967 viết về Hồ Chí Minh, khi bình
luận về những quyết định của Hồ Chí Minh từ 1941 đến 1951 [thành lập Việt Minh,
giải tán ĐCSĐD, thành lập Đảng Lao động Việt Nam – theo Lacouture ĐLĐVN là «
thuần tuý Việt Nam » -, thành lập Mặt trận Liên Việt…], đã viết : « Tất cả diễn
ra cứ như thể Hồ Chí Minh không xem đảng như là một mục đích, mà như là một
phương tiện, như là một công cụ cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ mà chủ nghĩa thực
dụng của ông lại xuất hiện một cách can đảm như thế, sống động như thế » (Ho
Chi Minh, Jean Lacouture, Seuil, 1967, tr.196). Lacouture không phải là không
có lý khi nêu nhận xét này. Cái lý đó là : nếu mục đích của Hồ Chí Minh là độc
lập dân tộc, thì không có gì khó hiểu khi đảng cộng sản đối với ông chỉ là
phương tiện, là công cụ để giúp ông đạt mục đích đó.
Cũng đừng quên rằng cho đến khi Hồ Chí Minh chết, đảng vẫn
mang tên « Đảng Lao động Việt Nam ». Phải chăng, đối với Hồ Chí Minh, tên gì
cũng được, không nhất thiết phải là « đảng cộng sản », miễn là nó phục vụ công
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ? Ngoài ra, dưới thời kỳ lãnh đạo của Hồ Chí
Minh, Hiến pháp Việt Nam không có điều khoản quy định sự lãnh đạo tuyệt đối của
đảng cộng sản Việt Nam, thậm chí cũng không có điều khoản quy định sự lãnh đạo
của Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN), đảng đang cầm quyền lúc đó. Việc đổi tên đảng
thành ĐCSVN, và đưa quyền lãnh đạo của ĐCSVN vào Hiến pháp chỉ xảy ra dưới thời
Lê Duẩn toàn quyền.
Điều này có ý nghĩa đối với những người đang ra sức « học tập
và làm theo lời Bác », nhất là những người phát động phong trào này. Lãnh đạo
Việt Nam chỉ phát động phong trào « học tập tư tưởng Hồ Chí Minh », chứ không
phát động phong trào « học tập tư tưởng Lê Duẩn ». Vậy ĐCSVN hiện nay đang học
tập Hồ Chí Minh, hay đang học tập Lê Duẩn ? Và lãnh đạo đảng cũng không nên tiếp
tục lảng tránh và nguỵ biện về việc Lê Duẩn và đảng đã phản bội di chúc của Hồ
Chí Minh. Đã đến lúc phải thực hiện di chúc của ông ấy. Làm sao có thể vừa phản
bội Hồ Chí Minh vừa học tập Hồ Chí Minh ?
Chủ nghĩa cộng sản là mục đích hay phương tiện ?
Câu hỏi này, những đảng viên đảng cộng sản ngày nay cần đặt
ra cho mình. Vì sao ?
Nếu chủ nghĩa cộng sản chỉ là một phương tiện để đạt tới mục
đích giải phóng dân tộc, thì sau khi đạt được mục đích, có thể loại bỏ phương
tiện, nhất là khi mà phương tiện đó không còn hữu ích nữa. Càng cần phải vứt bỏ
phương tiện đó, khi mà ngày nay nó đang trở thành lực cản, cản trở việc thực hiện
các mục đích : độc lập dân tộc, sự hùng cường của quốc gia, tự do và hạnh phúc
của nhân dân.
Paris, 21/2/2017
Nguyễn Thị Từ Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét