Bia sổ hộ khẩu. Nguồn: internet
Mới đây, tại buổi làm việc với Sở Khoa học Công nghệ của
đoàn công tác Thành uỷ TPHCM do Bí thư Thành ủy Đinh La Thăng dẫn đầu, đã nổ ra
cuộc tranh luận quanh quy định về hộ khẩu, khởi đầu bằng phát biểu của Giám đốc
Sở KHCN Nguyễn Việt Dũng: “Hà cớ gì chuyên gia, nhà khoa học giỏi trong cùng đất
nước mà đưa ra chính sách hộ khẩu để xét duyệt?”, được Bí thư hưởng ứng “ Nếu cứ
đòi hộ khẩu thì sẽ không thu hút được Việt kiều, chuyên gia, người giỏi đâu”.
Lập tức vấn đề hộ khẩu bức xúc truyền thông xưa nay không được
giải quyết tái bùng phát. Vietnam.net giật tít: “Bí thư Đinh La Thăng: Đòi hộ
khẩu sao hút được người giỏi”. Tờ Một Thế Giới đi sâu hơn với dòng tít “Cần cắt
phăng sổ hộ khẩu” (1) bằng viện dẫn cảnh trần ai oán: “Có nhiều gia đình sống
lang thang nay đây mai đó, gầm cầu xó chợ, do không có hộ khẩu nên không tìm được
công ăn việc làm, không mua được nhà, không có bất cứ chế độ chính sách gì, sống
như chết, khổ sở trăm bề… Mua nhà phải có hộ khẩu, nhập hộ khẩu phải có nhà,
cái sự vô lý ấy kéo dài suốt bao nhiêu năm trời, dân tình oán thán nhưng cứ cắn
răng chịu bởi nhà nước bảo sao phải làm vậy. Chính sách quản lý bằng hộ khẩu đã
gây bao nhiêu khổ sở cho dân lành. Dân khổ, nhưng có một bộ phận được lợi từ
chính sách này. Họ có quyền sinh quyền sát, bán cái quyền ấy cho những người có
nhu cầu nhập khẩu”.
Cuộc tranh luận trên kết thúc chỉ bằng mỗi đề xuất của Giám
đốc Sở Nội vụ Trương Văn Lắm cho riêng thành phố “sẽ đề xuất việc bỏ hộ khẩu
trong tuyển công chức, viên chức”. Vậy bao nhiêu năm nữa, thì chính sách hộ khẩu
cực kỳ hệ trọng liên quan toàn bộ 90 triệu dân số, người dân mới thôi than vãn:
“Nhà nước ta dường như cũng đã không ít lần nhận ra sự vô lý của sổ hộ khẩu
nhưng có vẻ lợi ích nhóm từ cách quản lý này còn mạnh nên vài lần bàn tới bàn
lui vẫn chưa đến đâu? (Một Thế giới)”. Và trách nhiệm thuộc về ai? Bởi phát biểu
từ giám đốc sở tới Bí thư Thành Ủy đều cho thấy không tự giải quyết được.
*Tư liệu về hộ khẩu nước ta và thế giới
Wikipedia tiếng Việt giải thích “Hộ khẩu là một phương thức
quản lý nhân khẩu của một số quốc gia tại Á Đông”, “tồn tại ở các nước: Trung
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên và Việt Nam“ (2). “Chính quyền Việt
Nam DCCH đã áp dụng phương thức quản lý và cấp hộ khẩu từ thập niên 1950“. Sau
đó áp dụng “Nghị định số 104-CP, ngày 27.6.1964, Nghị định số 4-HĐBT, ngày
7.1.1988, Nghị định số 51 ngày 10.5.1997 của Chính phủ và Thông tư số 06-TT/BNV (C13), ngày
20.6.1997 của Bộ Nội vụ. Mẫu Sổ hộ khẩu do Bộ Nội vụ (nay Bộ Công an) phát hành
thống nhất trong cả nước, gồm: Sổ hộ khẩu gốc do cơ quan công an trực tiếp lập,
lưu giữ (3). Sổ hộ khẩu gia đình được cấp cho từng hộ gia đình” (4).
“Theo cách quản lý của
các nước Tây phương tiên tiến thì cư dân không có hộ khẩu” (5).
*Bản chất hộ khẩu
Bất kỳ nước nào cũng đều phải giao dịch với công dân mình cả,
nên phải nắm được nhân thân họ, trong đó có hộ khẩu, nhưng khác nhau về bản chất.
Vì vậy, điểm (1), (2) (5) nêu trên sẽ làm người đọc không hiểu đúng mục đích
sâu xa của người viết.
Hộ khẩu các nước “Tây phương” gắn liền với quyền cư trú và
đi lại, tức do Hiến pháp và văn bản luật điều chỉnh trực tiếp. Xin được dẫn liệu
thực tế Đức: Ngay Điều 1, Hiến pháp Đức quy định: “Nhân phẩm con người bất khả
xâm phạm. Tôn trọng và bảo vệ nó là trách nhiệm pháp lý của mọi quyền lực nhà nước”.
Điều 11 quy định tiếp, trách nhiệm đó phải bảo đảm được “tất cả người Đức được
hưởng quyền cơ bản tự do cư trú đi lại trên toàn Liên bang”. (Chỉ bị hạn chế bởi
luật và áp dụng cho từng đối tượng cụ thể khi chính sự tồn tại của người đó hay
cộng đồng liên quan bị đe doạ, hoặc để chống dịch bệnh, thảm hoạ, tai nạn, bảo
vệ thanh thiếu niên, ngăn ngưà tội phạm). Để thực thi Điều 11, Điều 73 hiến định:
“nhà nước cấp Liên bang phải ban hành luật tự do cư trú và đi lại” (cần phân biệt
nội hàm “luật tự do cư trú”, khác với
“luật cư trú”). Nó đưa ra những chuẩn mực thước đo quy tắc xử sự buộc
nhà nước khi nắm hộ khẩu phải bảo đảm quyền cơ bản đó trên hết, chứ không phải
đưa ra những điều kiện tiêu chuẩn người dân được phép cư trú tại đâu như các
nghị định và thông tư ở ta. Bởi quyền cơ bản do “tạo hoá cho họ”, thuộc bản
năng con người, vì vậy, nếu quyền lực nhà nước không bảo đảm cho nó, tự nó sẽ
hoặc phản kháng hoặc “chui”, tất yếu dẫn tới hệ lụy (1). Càng không thể coi “bỏ
hộ khẩu” chỉ để “thu hút chuyên gia nhà khoa học giỏi” hay “Việt kiều” (như
trích dẫn trên) vốn chỉ là hệ qủa (còn nếu chỉ vì hệ qủa đó thì sẽ bị coi vi hiến,
phân biệt đối xử giữa người giỏi được đặc quyền so với tất cả người dân còn lại).
Như vậy, cư trú ở đâu là quyền công dân họ, bất khả xâm phạm,
tự do lựa chọn; người dân có quyền viện đến toà áp dụng luật tự do cư trú để
tuyên hủy những quyết định nào của chính quyền vi phạm quyền đó của họ. Đó cũng
chính là quy trình pháp lý bắt buộc đối với bất kỳ chính sách nào ban hành, mà
bất kỳ nhà nước nào vận hành theo nguyên lý “nhà nước pháp trị (pháp quyền)”, đều
phải tuân thủ.
*Hành trình gian nan của Luật tự do cư trú mang tên BMG
Luật BMG Đức hiện tại có hiệu lực từ 1.11.2015, lần bổ sung
cuối cùng có hiệu lực đầu năm nay, bắt nguồn từ Luật đăng ký chỗ ở năm 1980. Hiện
có 58 điều, chủ yếu gồm: – Nhiệm vụ thẩm quyền cơ quan hộ tịch, lưu giữ dữ liệu,
các thông số cần lưu giữ, tính chính xác và đầy đủ danh bạ hộ khẩu, bí mật đăng
ký hộ khẩu. – Quyền được bảo vệ dữ liệu khi đăng ký hộ khẩu. – Trách nhiệm công
dân đăng ký khi chuyển, cắt hộ khẩu, trách nhiệm chính quyền cấp giấy chứng nhận,
trách nhiệm chứng nhận của người cho thuê… – Những ngoại lệ đối với thuỷ thủ,
nhà nghỉ dài ngày, bệnh viện, nhà dưỡng lão. – Cung cấp dữ liệu đăng ký hộ khẩu
cho các cơ quan nhà nước liên quan. – Vi phạm hành chính và phạt tiền… – Sơ
tán… – Những quy định cho cơ quan hộ khẩu.
Trong đó, Sổ hộ khẩu gốc (hiểu như ở điểm (3)), Luật BMG gọi
là danh bạ hộ khẩu, tập hợp tất cả hộ khẩu gốc mà công dân đăng ký cư trú ở điạ
phương đó (chứ không phải được phép cư trú như ở ta) gồm các thông tin: Tên, học
vị, bí danh, ngày tháng năm sinh, nam nữ, quốc tịch, tôn giáo, điạ chỉ hiện tại,
trước đây, nơi ở chính hay phụ, ngày dọn vào, dọn ra, tình trạnh hôn nhân, ngày
cưới, họ tên ngày sinh điạ chỉ vợ/chồng, con ăn theo, số chứng minh thư, số thuế…
Còn Sổ hộ khẩu gia đình như ở điểm (4) chỉ là một giấy tùy thân do cơ quan hộ
khẩu cấp chứng nhận chỗ ở.
Để thông qua được Luật BMG trên, họ đã mất tới 5 năm ròng
tranh cãi, bởi làm sao để giữ được bí mật nhân thân của công dân như hiến định,
trong khi dữ liệu đó lại nằm trong sổ hộ khẩu gốc cơ quan hộ tịch nắm có thể tiết
lộ. Dự thảo Chính phủ trình Hạ viện năm 2011 đòi cơ quan hộ tịch chỉ được phép
tiết lộ dữ liệu hộ khẩu phục vụ cho nhu cầu quảng cáo, hoặc môi giới điạ chỉ,
sau khi được người đăng ký hộ khẩu đó đồng ý chính thức. Tới khi Uỷ ban Nội vụ
Hạ viện thẩm định lại, và 3 ngày trước khi Hạ viện bấm nút thông qua, đảng CSU
và FDP trong quốc hội đòi người xin dữ liệu hộ khẩu của ai phục vụ cho quảng
cáo phải được người đó cấp giấy phép trình cơ quan hộ khẩu, còn nếu xin „miệng”
chỉ được cấp dữ liệu tên và điạ chỉ. Luật BMG sau khi thông qua Hạ viện phải
trình tiếp Thượng viện, nhưng bị gạt bỏ năm 2012, sang năm 2013 phải chuyển cho
ủy ban hỗn hợp Hạ và Thượng viện thương lượng.
Dù đã được thông qua, Luật BMG vẫn bị nhiều chính khách tiếp
tục phản đối, cho rằng, bí mật cá nhân trở thành nạn nhân của lợi ích kinh tế,
luật cho phép bán sạch dữ liệu bí mật của họ. Với những phản ứng như thế, rất
có thể lúc nào đó tuỳ tình hình chính trường, Luật lại phải đưa ra xem xét. Gần
đây nhất, luật bổ sung thêm Điều 19, có hiệu lực đầu năm nay, buộc chủ cho thuê
phải chứng nhận thời điểm người thuê vào hoặc ra khỏi căn hộ; người thuê phải
trình bằng chứng đó khi nhập hoặc cắt hộ khẩu, nhằm tránh nạn khủng bố lưu trú
không đăng ký.
*Vai trò quyết định của quốc hội và nghị sỹ
Luật không tự đến! Chỉ mỗi Luật BMG, mà nước Đức phải mất 5
năm tranh cãi. Sở dĩ chất lượng làm luật cao như vậy là nhờ thiết chế họ buộc
Quốc hội phải đầu tư công sức thời gian thích ứng. Theo thống kê gần nhất, năm
kia, Quốc hội Đức tiếp nhận tổng cộng tới 180 dự luật (so với ta chỉ trên chục
luật), bình quân 2 ngày niên lịch 1 dự luật. Quốc hội họp định kỳ tại Berlin tổng
cộng 20 tuần / 53 tuần, nghĩa là cách 1,3 tuần có 1 tuần chuyên họp. Tất cả nghị
sỹ phải có trách nhiệm tham gia, ghi danh sách, bị chế tài bởi Điều 14 Luật nghị
sỹ. Họ họp toàn thể tổng cộng 70 phiên, tức 5 ngày 1 phiên, (trong khi ở ta chỉ
tập trung vào 2 kỳ), thông qua tổng cộng 130 luật (trong khi ở ta chỉ chừng chục
luật); tính ra 3 ngày thông qua được 1 luật.
Để có 180 dự luật trên, chính phủ soạn thảo tới 116 luật
(nhiều nhất), 11 do đảng đoàn hoặc nhóm nghị sỹ, 2 do chính phủ phối hợp đảng
đoàn nghị sỹ cầm quyền, 1 do Thượng viện. Các dự thảo luật trình quốc hội phải
qua 3 lần xem xét (ngưỡng quá tam ba bận) mới “bấm nút” thông qua.
Để thông qua, nghị sỹ phải có kiến thức thực tế từ kết qủa
điều hành (hành pháp và hành chính) của chính phủ, nên có tới 1.029 lượt đảng
đoàn chất vấn chính phủ, đòi trả lời một vấn đề cụ thể nào đó. Thời hạn trả lời
bị chế tài trong 2 tuần, không được viện dẫn bất kỳ lý do gì để quá hạn. Còn cá
nhân nghị sỹ chất vấn tổng cộng 3.574 lượt bằng văn bản, 822 bằng miệng, 9 trường
hợp khẩn cấp. Tính ra mỗi ngày chính phủ phải trả lời tới 12 lượt chất vấn.
Từ thực tế ra đời văn bản lập pháp ở Đức trên cho thấy, mặc
dù rõ ràng ở ta”hộ khẩu cần cắt phăng” nếu
theo chuẩn mực thế giới. Nhưng để làm được, trước hết cần cải cách thiết chế
nghị sỹ và Quốc hội như một cỗ máy cái không chỉ sản xuất được luật hộ khẩu chất
lượng thế giới mà còn cho bao luật cấp bách hiện đang đặt ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét